Cây Giống Trồng Rừng Chịu Mặn Trên Ruột Bầu Hữu Cơ Nhẹ

Trong thời gian qua, Quảng Ninh đã rất nỗ lực trong việc trồng mới và hồi sinh những cánh rừng ngập mặn (RNM). Tuy nhiên, trước những biến đổi của khí hậu ngày càng trở nên phức tạp, ô nhiễm môi trường... thì việc khôi phục và trồng lại RNM là vô cùng khó khăn, tốn kém.
Trên thực tế cho thấy, có những khu vực tỉ lệ cây sống thành rừng chỉ đạt từ 50-60%. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và phát triển thành công một số loài cây giống trồng rừng chịu mặn chủ yếu trên ruột bầu hữu cơ nhẹ của 2 kỹ sư Đỗ Thanh Vân và Trần Văn Sáng (Trung tâm KH&SX Lâm nông nghiệp Quảng Ninh), đang được coi là giải pháp kỹ thuật tháo gỡ được một phần bài toán về kinh phí và tăng nguồn gen trong bảo tồn đa dạng sinh học loài.
Chia sẻ về ý tưởng giải pháp trên, kỹ sư Đỗ Thanh Vân cho biết: “Năm 2008, trong một chuyến đi học tập, nghiên cứu tại Trung Quốc, khi tham quan thực tế mô hình sản xuất bầu siêu nhẹ đối với cây giống bạch đàn giống U6, Quảng Lâm 9, PN13... chúng tôi đã đặt vấn đề tại sao ta lại không sản xuất cây bầu hữu cơ nhẹ cho cây trồng RNM.
Đến năm 2010- 2011, Quảng Ninh hợp tác với JICA sản xuất thành công bầu giá thể nhẹ để tạo cây giống Rhizophora stylosa; Kandelia candel; Aegiceras corniculatum; Avicennia marina... mang ra trồng tại Vụng Ba Cửa trên Vịnh Hạ Long. Các giá thể hữu cơ nhẹ này được thải ra từ trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi nhưng do nhập từ Nhật Bản về lên giá thành rất đắt. Tại sao không dùng các giá thể nhẹ ngay tại địa phương để sản xuất cây giống chịu mặn trên ruột bầu hữu cơ? Và ý tưởng của chúng tôi đã ra đời”.
Được biết, ngay sau khi có ý tưởng trên, kỹ sư Đỗ Thanh Vân và Trần Văn Sáng đã quyết định đầu tư 30-40 triệu đồng để tiến hành điều tra, khảo sát địa điểm vườn ươm, thu thập hạt giống.
Vườn ươm thực hiện tại khu vực bãi triều phường Tuần Châu (TP Hạ Long) với diện tích 3.000m2, được đắp đê bao, chống triều cường mạnh; hạt giống được thu hái, tuyển chọn đúng tiêu chuẩn, tại cây trội vùng RNM xã Đồng Rui (huyện Tiên Yên) và rừng trồng bảo vệ đê biển Hoàng Tân (TX Quảng Yên).
Qua nhiều lần tiến hành khảo nghiệm, thực hiện tạo bầu hữu cơ nhẹ và đối chứng thực tế cho thấy, với tỷ lệ 40% vỏ trấu hun, 40% lõi ngô, 20% phân hữu cơ đã cho hiệu quả cao, hoàn toàn phù hợp với sự phân huỷ, tạo chất dễ tiêu cho cây trồng trong môi trường hiếm khí và nước.
Sau khi thực hiện thành công, giải pháp đã được 2 tác giả ứng dụng ngay trong hợp đồng kinh tế với tổ chức JICA tại Quảng Ninh, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Thái Bình và Công ty Sản xuất dịch vụ sản phẩm nông nghiệp Công nghệ cao Yên Hưng. Các đơn vị trên đánh giá cao giải pháp khi không khai thác sử dụng đất ngập mặn làm ruột bầu từ tự nhiên, không phá vỡ môi trường đất ngập mặn và môi trường cư trú của động vật, cho tỷ lệ cây sống đạt trên 95%.
Công tác vận chuyển cây không mất nhiều chi phí do cây giống giảm được trọng lượng bầu từ 30-50% khi xuất vườn. Đồng thời, giúp người nông dân tăng thu nhập từ phế thải nông nghiệp, chăn nuôi… Quan trọng hơn cả là giá thành sản xuất cây giống bằng giá thể bầu hữu cơ nhẹ thấp hơn rất nhiều so với việc nhập giá thể từ nước ngoài.
Trung bình 1kg giá thể nhẹ nhập từ Nhật về sẽ mất khoảng 80-90 USD/kg, trong khi đó việc tận dụng những nguyên liệu trên ngay tại địa phương chỉ mất khoảng 7.000-10.000 đồng/kg, nên việc sản xuất cây giống ngập mặn đủ tiêu chuẩn cũng chỉ mất từ 4.300-5.500 đồng/cây. Quá trình chăm sóc cây tại vườn ươm cũng khá đơn giản, người dân chỉ cần theo dõi và phòng chống sâu bệnh, nhặt rác trôi đè vào cây giống...
Mặc dù, tính ưu việt của giải pháp đã được chứng minh, tuy nhiên, theo kỹ sư Đỗ Thanh Vân, do nguồn kinh phí hạn hẹp nên hiện nay ông vẫn chưa đầu tư được hệ thống vườn ươm cứng có diện tích rộng và việc đóng bầu vẫn bằng thủ công.
Nếu được tỉnh tạo điều kiện giao mặt bằng bãi triều từ 2-3ha để xây dựng 2 vườn cây nước lợ và nước mặn; đầu tư máy đóng bầu… thì vườn ươm có thể cho sản lượng cây giống chịu mặn chất lượng cao từ 500.000-1.000.000 cây giống/năm. Đồng thời cũng là nơi chuyển giao, học tập công tác tạo cây giống chịu mặn cho người dân, doanh nghiệp có nhu cầu.
Có thể thấy, khả năng sử dụng bầu hữu cơ nhẹ sẽ thay thế giá thể bầu đất truyền thống là một hướng đi mới trong ngành tạo cây giống phục vụ trồng cây chịu mặn đại trà trong tỉnh, tăng nguồn gen trong bảo tồn đa dạng sinh học loài. Thiết nghĩ, các cấp ngành cần sớm có sự quan tâm đầu tư để giải pháp phát huy hết hiệu quả.
Có thể bạn quan tâm

Thực hiện chương trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Cần Giờ trong đó nghề nuôi trồng thủy sản vẫn chiếm vai trò chủ lực, trong đó con tôm vẫn là đối tượng nuôi chính. Từ năm 2013, để đa dạng hóa các đối tượng nuôi Trung tâm Khuyến nông TP. Hồ Chí Minh đã triển khai đầu tư một số mô hình nuôi cua bằng con giống nhân tạo và kết quả mang lại rất khả quan.

Năm 2013, công ty xuất bán cá thương phẩm được trên 14 tấn, đạt doanh thu trên 2,2 tỷ đồng. Dự kiến đến cuối năm 2018, công ty sẽ hoàn thành lắp đặt và đưa vào sử dụng 174 lồng, với tổng diện tích 74.800 m2 mặt lồng, số lượng cá giống khoảng 600.000 con, đồng thời xây dựng khu chế biến xuất khẩu cá đông lạnh tại xã Nam Ka quy mô 3-4 ha, công suất 200 tấn/năm cho thị trường Nga và EU, với tổng vốn đầu tư gần 297 tỷ đồng.

Mô hình nuôi cá rô đồng thời gian qua đã mang lại giá trị kinh tế cao cho nhiều người nuôi. Nhận biết đặc điểm cá rô đồng cái sinh trưởng và phát triển nhanh hơn cá đực, qua đó, để tạo ra con giống chất lượng, góp phần nâng cao hơn hiệu quả sản xuất cho bà con, Trung tâm KHKT&SX Giống thuỷ sản Quảng Ninh đã nghiên cứu thành công phương pháp sản xuất giống cá rô đồng toàn cái bằng phương pháp tạo cá đực đặc biệt.

Cách đây ít năm thôn Liên Minh, xã Trân Châu, huyện Cát Hải, tỉnh Hải Phòng được coi là “đảo của đảo” vì biệt lập với bên ngoài bởi các rặng núi đá cao vút. Chính vị trí địa lý đặc biệt ấy tạo nên một vùng tiểu khí hậu, thổ nhưỡng riêng và giống gà bản địa thuần chủng – mà tên của thôn đã được đặt cho giống gà này: Gà Liên Minh.

Để quản lý tốt các cơ sở nuôi nhốt động vật hoang dã, việc phối hợp chặt chẽ giữa ngành chức năng với chính quyền địa phương, bà con chăn nuôi nhằm làm rõ ràng nguồn gốc gây nuôi động vật hoang dã trên địa bàn là việc làm quan trọng.