Cây Điều Việt Nam Đang Đứng Trước Nhiều Cơ Hội Và Thách Thức

Đó là nhận định của các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội điều Việt Nam (VINACAS) và các nhà quản lý ngành điều tại hội nghị Điều quốc tế Việt Nam 2014 diễn ra tại TP Vũng Tàu (Bà Rịa – Vũng Tàu) từ ngày 15 đến 17-5. Tham dự hội nghị có hơn 200 doanh nghiệp, nhà phân phối đến từ 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới.
Theo thông tin từ hội nghị, hiện nay, Việt Nam được coi như một cường quốc về sản suất, chế biến điều, chỉ đứng sau Ấn Độ. Những năm trước đây, diện tích cây điều của nước ta có khoảng hơn 400.000 ha nhưng vì nhiều lý do khách quan lẫn chủ quan, hiện diện tích trồng điều chỉ còn khoảng hơn 310.000 ha, chủ yếu trên địa bàn các tỉnh miền Đông Nam Bộ như Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu...
Bình quân sản lượng những năm gần đây khoảng hơn 1,2 triệu tấn điều thô, khoảng 260.000 tấn điều nhân sơ chế và hơn 100.000 tấn vỏ điều chế biến dầu. Kim ngạch xuất khẩu hơn 1,8 tỉ USD, chỉ đứng sau các mặt hàng xuất nông sản khác như gạo, cao su, cà phê…
Về chế biến sau thu hoạch, hiện Việt Nam có hơn 500 doanh nghiệp, cơ sở và khoảng 333 đơn vị xuất khẩu điều trực tiếp cho hơn 80 quốc gia vùng lãnh thổ trên thế giới. Không những đem lại nguồn ngoại tệ xuất khẩu, ngành sản xuất, chế biến điều còn tạo việc làm ổn định cho hàng trăm ngàn lao động ở nông thôn.
Bên cạnh những cơ hội, theo nhận định của một số doanh nhân, nhà quản lý, Hiệp hội Điều Việt Nam thì vẫn còn có những thách thức không nhỏ. Những năm gần đây, diện tích điều của nước ta liên tục thu hẹp; nguyên nhân là do như nông dân chặt bỏ cây điều để trồng cây công nghiệp khác đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, tái canh vườn điều có năng suất thấp để đưa vào trồng giống điều mới có hiệu quả hơn…
Không những vậy, cây điều của Việt Nam cho năng suất thấp, trình độ thâm canh của nông dân vẫn còn hạn chế, khâu chế biến còn nhỏ lẻ, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa tốt… Trong khi đó, các thị trường xuất khẩu như: Mỹ, Nhật Bản, Úc… lại đòi hỏi rất khắt khe về quy trình sản xuất, chế biến, nếu các doanh nghiệp chuẩn bị không tốt sẽ khó chiếm lĩnh được các thị trường lớn nói trên.
Ông Nguyễn Văn Hòa Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) cho biết: Cơ hội xuất khẩu đang rộng mở là tín hiệu vui cho ngành Điều trong hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, muốn điều này mang tính ổn định lâu dài thì ngành sản xuất, chế biến điều vẫn còn có những hạn chế nhất định.
Chúng ta cần có quy trình cải tạo vườn điều một cách bài bản từ khâu chọn giống điều tốt có năng suất cao hiệu quả hơn, rà soát quy hoạch vùng nguyên liệu chuyên canh. không chặt bỏ ồ ạt để chạy theo thị trường hiện tại. Song song đó, các ngành chức năng, các địa phương cần tăng cường hướng dẫn kỹ thuật cho người nông dân về cách chăm bón, thu hoạch và sau khi thu hoạch đạt chất lượng cao và nhất là làm tốt khâu vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hiện tại năng suất của cây điều của Việt Nam chỉ đạt khoảng hơn 1 tấn/ha. Nếu người nông dân làm tốt những kỹ thuật trên thì có thể đạt năng suất 2-3 tấn/ha. Ngoài ra, không chỉ hạt điều mới mang lại giá trị kinh tế mà vỏ điều có thế làm dầu, trái điều làm phân bón...
Có thể bạn quan tâm

Thời gian gần đây, tại địa bàn các huyện vùng cao tỉnh Quảng Ngãi, thương lái đang lùng sục thu mua cây khổ sâm (hay còn gọi là cây cứt chuột) với giá cao để xuất sang thị trường Trung Quốc. Nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số có thêm nguồn thu nhập đáng kể từ việc làm này.

Hầu như bất cứ ai đi Cần Giờ (TPHCM) cũng phải tìm mua bằng được đặc sản khô cá dứa. Cá dứa Cần Giờ vì vậy hút hàng, rất khó mua đã trở thành cơ hội để cá dứa giả tràn lan.

Nguyên nhân là do vào thời điểm hiện nay Đà Lạt đã hết mùa dâu tây chính vụ, khan hiếm hàng đã đẩy giá cả tăng cao. Theo một số tiểu thương, trong thời gian tới giá dâu tây có thể sẽ còn tăng cao hơn nữa. Hiện Đà Lạt có trên 100ha dâu tây, chủ yếu ở các phường 7, 8.

Năm 2013, Việt Nam đã NK bông nguyên liệu từ 19 nước trên tổng số 55 quốc gia châu Phi. Các nước cung cấp chính chủ yếu nằm ở khu vực Tây Phi và một số nước Đông Phi. Một số DN Việt Nam nhận xét, nguồn bông này có chất lượng khá tốt, giá hợp lý và phù hợp với yêu cầu sản xuất tại Việt Nam.

Tuy diện tích tăng hàng năm không nhiều, nhưng sản lượng thì tăng khá nhanh, do được đầu tư sản xuất theo hình thức thâm canh, bán thâm canh theo hướng an toàn dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm, cùng với việc hình thành các vùng nuôi tập trung với các đối tượng như: cá tra, cá trê lai, rô đồng, thát lát…