Canh tác lúa giảm phát thải

Chương trình hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng được hình thành từ năm 1992 theo sáng kiến của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) với mong muốn xây dựng một khu vực nông nghiệp được công nhận là nhà SX hàng đầu về thực phẩm an toàn.
Vừa qua, tại Thái Nguyên, Bộ NN-PTNT đã tổ chức hội thảo chia sẻ kinh nghiệm canh tác lúa giảm phát thải với sự tham gia của đại diện các quốc gia đến từ 5 nước thuộc tiểu vùng Mê Kông là Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Việt Nam và 2 tỉnh Vân Nam, Quảng Tây (Trung Quốc).
Phía chủ nhà Việt Nam có lãnh đạo một số cục, vụ, viện của Bộ NN-PTNT, đại diện ngành nông nghiệp một số địa phương tiêu biểu trong thực hiện canh tác lúa giảm phát thải.
Phát biểu khai mạc hội nghị, ông Trần Kim Long, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ NN-PTNT cho biết, SX lúa gạo tại Việt Nam làm phát thải 27,8 triệu tấn khí thải CO2, chiếm 67% tổng lượng phát thải từ ngành nông nghiệp.
Theo công bố gần nhất thì Việt Nam bị xếp là quốc gia có tổng lượng phát thải nhà kính đứng thứ 31 trên thế giới.
Vì vậy, ngành nông nghiệp Việt Nam mong muốn có sự hợp tác chặt chẽ với cá nước trong tiểu vùng để không ngừng giảm thiểu lượng phát thải từ canh tác lúa.
Từ đề dẫn nói trên, tham luận của các đại biểu tập trung vào việc đánh giá hiệu quả của các phương pháp canh tác, SX lúa gạo bền vững.
Theo đó, tại khu vực Đông Nam Á, hệ thống canh tác lúa cải tiến (SRI) được đánh giá là một hướng tiếp cận mới với kỹ thuật thích hợp mang lại nhiều hy vọng cho bà con nông dân SX lúa có quy mô nhỏ; phương pháp canh tác nói trên vừa đảm bảo an ninh lương thực vừa ứng phó tốt với biến đổi khí hậu.
Theo đánh giá, SRI là tiếp cận theo hướng nông nghiệp sinh thái với 5 nguyên tắc: Cấy mạ non 1 dảnh/khóm; mật độ thưa thích hợp, không sử dụng thuốc trừ cỏ; làm cỏ sục bùn, sử dụng ít thuốc trừ sâu bệnh; quản lý nước phù hợp với nhu cầu cây lúa; giảm phân vô cơ, tăng phân hữu cơ.
Canh tác lúa giảm phát thải đòi hỏi sự hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm của các quốc gia trong tiểu vùng Mê Kông
Thực tế áp dụng phương pháp canh tác SRI đã tiết kiệm được 70 - 90% hạt giống, 30% phân bón hóa học, 50% công cấy, 40 - 50% nước tưới. Không sử dụng thuốc trừ cỏ, giảm lượng thuốc trừ sâu.
Trong chương trình, các đại biểu đã tham quan và dự hội thảo đầu bờ về phương pháp canh tác lúa cải tiến (SRI) tại 2 huyện Phú Lương và Định Hóa (Thái Nguyên).
Kết quả là năng suất lúa tăng được 13 - 29%, lợi nhuận từ thay đổi phương pháp canh tác tăng từ 8 - 32%.
Đáp ứng yêu cầu giảm phát thải, canh tác lúa SRI sẽ giảm ảnh hưởng tiêu cực do biến đổi khí hậu gây ra, làm giảm phát thải 4 tấn CH4/ha.
Quan trọng hơn, phương pháp canh tác đơn giản, hiệu quả, phù hợp với nông dân sản xuất quy mô nhỏ nhưng lại tạo ra sản phẩm gạo chất lượng cao.
Tại Việt Nam, hiện có hơn 1,5 triệu nông dân áp dụng phương pháp canh tác lúa cải tiến (SRI) với trên 500.000 ha thuộc 29 tỉnh, thành. SRI đã được Bộ NN-PTNT công nhận là tiến bộ kỹ thuật mới và tặng thưởng danh hiệu Bông lúa vàng Việt Nam.
Thống nhất phương pháp canh tác lúa cải tiến SRI là lựa chọn để thực hiện giảm phát thải, tham luận của các đại biểu tại hội thảo đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa quy mô, hiệu quả của phương pháp trên.
Các giải pháp tập trung vào việc đẩy mạnh nghiên cứu để hoàn thiện phương pháp canh tác; đẩy mạnh vận động, tuyên truyền; tổ chức tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm; xây dựng cơ chế hỗ trợ…
Có thể bạn quan tâm

Chi hội nghề nghiệp bản Tà Bung, xã Nà Nhạn, huyện Điện Biên được thành lập năm 2010 với 21 thành viên, đến nay Chi hội đã thu hút được 20 thành viên.

Xã Chung Chải (huyện Mường Nhé), là địa bàn vùng cao biên giới đặc biệt khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo hiện chiếm 81%. Với chủ trương tuyên truyền, phổ biến kiến thức kỹ thuật áp dụng vào sản xuất, chủ động phát triển kinh tế hộ theo hướng bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống. Bằng nguồn kinh phí (DANIDA) Đan Mạch tài trợ, Trung tâm Khuyến nông tỉnh phối hợp với UBND xã Chung Chải xây dựng mô hình trình diễn nuôi vịt thịt an toàn sinh học tại bản Đoàn Kết.

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất bản Tà Cáng 1, xã Nà Tấu, huyện Điện Biên, cuộc sống của vợ chồng anh Lò Văn Pâng chủ yếu phụ thuộc và mô hình sản xuất VAC. Do tập quán canh tác lạc hậu, các loại cây trồng, vật nuôi phụ thuộc vào thời tiết nên thường xuyên thất thu.

Được thiên nhiên ưu đãi về điều kiện tự nhiên, Mường Ảng là vùng đất thích hợp cho cây cà phê sinh trưởng và phát triển, nuôi dưỡng nên những hạt cà phê mang hương vị thơm ngon đặc biệt.

Sản xuất vụ mùa năm 2012 trên địa bàn tỉnh ta không chỉ gặp khó khăn về chi phí đầu tư phân bón, giá nhân công đều tăng cao; khung thời vụ sản xuất trùng với mùa mưa bão, trong khi diễn biến của thời tiết khí hậu lại rất phức tạp và khó lường.