Cần nhiều giải pháp đồng bộ để phát triển mô hình cánh đồng lớn

Mô hình "Cánh đồng mẫu lớn" hay còn gọi là "Cánh đồng lớn" xuất hiện đầu tiên tại vùng ĐBSCL. Sau gần 5 năm triển khai, mô hình này đã và đang khẳng định được vai trò, vị trí của một phương thức tổ chức sản xuất nông nghiệp tiên tiến, hiệu quả, phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
Theo Cục Trồng trọt, nếu như năm 2011 vùng ĐBSCL diện tích thực hiện "cánh đồng lớn" chỉ khoảng 8.000ha thì đến năm 2014 đạt khoảng 140.000ha và dự kiến trong năm 2015 đạt khoảng 200.000ha. Mô hình "cánh đồng lớn" giúp nông dân tăng năng suất từ 15 - 20%; lợi nhuận tăng thêm từ 1,2 - 7,5 triệu đồng/ha so với mô hình bên ngoài…
Đặc biệt, mô hình đã tạo được sự liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa "4 nhà" (nhà nước, nhà khoa học, nhà nông và nhà doanh nghiệp). Từ đó làm tăng sản lượng, tạo ra sản phẩm lúa gạo chất lượng cao, làm tăng giá trị và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm lúa gạo trên thị trường trong và ngoài nước.
Tại hội nghị, các đại biểu một lần nữa khẳng định phát triển mô hình "cánh đồng lớn" là xu thế tất yếu, là giải pháp thiết thực nhất cho sản xuất lúa và cả ngành trồng trọt nhằm hướng tới thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, mô hình "cánh đồng lớn" còn nhiều khó khăn, thách thức cần có giải pháp đồng bộ để thúc đẩy sự phát triển của mô hình trong thời gian tới. Đó là: Đa số các doanh nghiệp xuất khẩu, tiêu thụ lúa gạo trong nước tham gia "cánh đồng lớn" còn khá chậm; trong khi mô hình này chính là điểm xuất phát cho việc xây dựng vùng nguyên liệu.
Một số doanh nghiệp tham gia mô hình nhưng nguồn lực có hạn, thiếu vốn để thu mua sản phẩm, đầu tư kho bãi… trong khi tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng còn nhiều khó khăn. Diện tích đất sản xuất/nông hộ ít (khoảng 0,6ha/hộ), trình độ sản xuất không đồng đều nên khả năng đầu tư, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật còn hạn chế. Một số nông dân trong "cánh đồng lớn" chưa tuân thủ đúng quy trình canh tác đã được hướng dẫn, chưa áp dụng sạ hàng, chưa quan tâm ghi chép sổ sách, nhật ký đồng ruộng…
Việc tổ chức, triển khai mô hình còn nhiều hạn chế do một số nơi chưa có hợp tác xã, tổ hợp tác hoặc các mô hình kinh tế hợp tác này còn nhiều yếu kém… Đặc biệt, một số văn bản pháp luật, chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ, chưa tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ gắn kết sản xuất, tiêu thụ thông qua hợp đồng trên "cánh đồng lớn", vùng nguyên liệu tập trung…
Có thể bạn quan tâm

Theo ông Hoàng Trung, Phó cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), dự kiến từ ngày 1/8 tới, Việt Nam chính thức mở cửa nhập khẩu trở lại 3 loại quả cam, quýt và nho từ Úc sau hơn nửa năm tạm dừng.

Lâu nay, cụm từ “trông chờ, ỷ lại” thường được gán cho nông dân một cách áp đặt khi nói về nguyên nhân của tư duy sản xuất lạc hậu, trì trệ, kém phát triển; trong khi điều mà họ cần là một định hướng phát triển sản xuất bền vững, hiệu quả để làm “điểm tựa” chứ không hoàn toàn là sự hỗ trợ mang tính “mùa vụ”. Khắc phục điểm yếu này, Hội Nông dân tỉnh đang triển khai các chương trình, dự án hỗ trợ hội viên bằng phương pháp “Cầm tay chỉ việc”.

Những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp (NN) của huyện Hoàng Su Phì đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cùng với việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất NN theo hướng hàng hóa; huyện đã tập trung chỉ đạo các xã, thị trấn tích cực đưa máy móc vào sản xuất, chế biến nhằm giải phóng sức lao động và nâng cao thu nhập cho người dân.

Ăn phải thịt heo có tồn dư chất tạo nạc sẽ bị ngộ độc, lâu dài có thể gây biến chứng ung thư.

Những năm qua, huyện Phụng Hiệp tập trung thực hiện chuyển dịch sản xuất theo hướng đa dạng hóa cơ cấu cây trồng, vật nuôi và cùng với việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã đưa sản xuất nông nghiệp ở địa phương có bước phát triển mới.