Các giống khoai mì thích hợp với vùng Tây Nguyên

Các viện, trường cũng đã đề nghị các tỉnh Tây Nguyên cần sớm triển khai thực hiện các giải pháp kỹ thuật phát triển khoai mì bền vững.
- Giống KM 140 (lai từ tổ hợp KM 98-1 x KM 36) cây cao, thân xanh, thẳng, ngọn xanh, lá dài, ít phân nhánh. Thu hoạch: 8 - 10 tháng sau trồng; năng suất củ tươi: 34 - 35 tấn/ha. Hàm lượng tinh bột: 26,1 - 28,7%; năng suất bột: 9,5 - 10 tấn/ha. Điểm yếu: nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
- Giống KM 98-5 (lai từ tổ hợp KM 98-1 x Rayong 90) cây cao vừa phải, thân xanh, thẳng, ngọn xanh, không phân nhánh. Thu hoạch: 8 - 10 tháng sau trồng; năng suất củ tươi: 34,5 - 35 tấn/ha. Hàm lượng tinh bột: 28,5%; năng suất bột: 9,8 - 10 tấn/ha. Điểm yếu: nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
- Giống KM 98-7 (lai từ tổ hợp SM 1717 có mẹ là CM 321-188) cây cao vừa phải, thân nâu đỏ, không phân cành hoặc phân cành 1 cấp, phiến lá nhỏ, chia thùy sâu, cuống lá và phiến lá màu xanh. Thời gian sinh trưởng 7 - 10 tháng. Khả năng thích ứng rộng, có thể trồng được ở nhiều loại đất khác nhau. Năng suất: 25 - 45 tấn/ha (tùy theo điều kiện đất đai và trình độ kỹ thuật canh tác), vỏ củ màu nâu, ruột củ trắng. Tỷ lệ chất khô: 38 - 40%; tỷ lệ tinh bột: 28 - 30%; thích hợp ăn tươi (không đắng) và chế biến.
- Giống KM 419 [lai từ tổ hợp BKA900 x (KM 98-5 x KM 98-5)], cây cao vừa phải, thân thẳng, phân cành cao, tán gọn, nhặt mắt, lá xanh đậm, ngọn xanh, cọng phớt đỏ. Thời gian sinh trưởng 7 - 10 tháng; năng suất củ tươi 42,3 - 52,3 tấn/ha. Hàm lượng tinh bột: 27,8 - 29,3%; năng suất tinh bột: 10,4 tấn/ha. Củ màu trắng, dạng củ đồng đều, thịt củ màu trắng thích hợp làm sắn lát khô, tinh bột. Điểm yếu: nhiễm nhẹ đến trung bình bệnh cháy lá.
- Giống SM 937-26 (giống nhập nội bằng hạt từ CIAT/Thái Lan), Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam tuyển chọn. Đặc điểm: cây cao vừa phải, thân nâu đỏ thẳng, không phân cành. Thời gian sinh trưởng 8 - 10 tháng; năng suất củ tươi 32,5 tấn/ha. Hàm lượng tinh bột: 37,9%; năng suất tinh bột 9,4 tấn/ha. Điểm yếu: nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
Các viện, trường cũng khuyến cáo các tỉnh Tây Nguyên bỏ cách trồng khoai mì “bổ hốc dí hom”, áp dụng các biện pháp canh tác luân canh, xen canh, rải vụ. Trên đất dốc trồng khoai mì theo đường đồng mức. Sau cày xới, khi trồng bón lót phân chuồng đã ủ hoai mục, bón thúc bằng phân N.P.K cân đối, hợp lý. Mức khuyến cáo/ha: 5 tấn phân chuồng, bón 80 kg đạm, 40 kg lân, 80 kg kali kết hợp khi làm cỏ xáo xới đất. Nên trồng luân canh, xen canh các cây họ đậu, trồng cây che phủ giữ ẩm và hạn chế xói mòn, bổ sung chất dinh dưỡng cho đất.
Theo TS. Nguyễn Văn Lạng, chủ tịch Hiệp hội sắn Việt Nam, để phát triển cây khoai mì bền vững, trước hết cần quy hoạch vùng nguyên liệu (khoảng 600.000 ha) và không nên mở rộng diện tích. Trồng các giống mới kết hợp các biện pháp thâm canh tốt nâng năng suất lên gấp đôi hiện nay (nghĩa là khoảng trên 30 tấn/ha).
Đầu tư công nghệ cho thu hoạch, chế biến và sản phẩm chế biến sâu sau tinh bột; phối hợp tổ chức nguyên liệu và công nghệ cho sản xuất ethanol... để giảm và tiến tới không xuất khẩu mì lát ra thế giới. Để làm được cần có cơ chế chính sách của Nhà nước phát triển khoai mì, cần có những đầu tư thích đáng, cần có cơ chế chính sách về tài chính, về đầu tư khoa học công nghệ, về khuyến nông, về quảng bá xây dựng thương hiệu một cách hợp lý hơn. Đưa khoai mì trở thành cây trồng chủ lực cho kim ngạch xuất khẩu.
Có thể bạn quan tâm

Cùng với sự hỗ trợ về vốn, kiến thức khoa học kỹ thuật và bao tiêu đầu ra cho sản phẩm măng tây xanh, huyện Gia Bình tích cực tạo điều kiện mở rộng diện tích trồng khoai tây Atlantic, lúa nếp phu thê, dưa chuột bao tử xuất khẩu, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nâng cao giá trị thu nhập trên một diện tích canh tác, tiến tới hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung.

Theo đa số người nuôi cá lóc ở xã Phú Thọ, trong khi dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp, thì sản phẩm thủy sản đang được người tiêu dùng quan tâm nên tiêu thụ dễ dàng, giá bán tăng. Với giá bán như hiện nay, trung bình 1 tấn cá lóc thương phẩm, người nuôi sẽ có lãi khoảng 7 triệu đồng.

Sản lượng thảo quả của xã Nậm Cang giảm mạnh là do đợt mưa tuyết đầu năm 2014 đã làm hàng trăm ha thảo quả của nhân dân bị héo, chậm phát triển, không thể ra hoa. Hiện, trên địa bàn xã Nậm Cang có gần 680 ha thảo quả, trong đó 370 ha đã đến kỳ cho thu hoạch, 310 ha còn lại sẽ cho thu hoạch trong những năm tiếp theo.

Bộ Công Thương và Phái đoàn EU tại Việt Nam thông qua Dự án Hỗ trợ chính sách thương mại và đầu tư châu Âu (EU-MUTRAP), phối hợp với Sở Khoa học - Công nghệ Kiên Giang, Hiệp hội Nước mắm Phú Quốc và các cơ quan liên quan sẽ tổ chức Tuần lễ truyền thông chỉ dẫn địa lý “Phú Quốc” cho sản phẩm nước mắm.

Lâu nay các loại cây chủ lực ở Tân Cư vẫn tập trung vào cây quế và cây mỡ, đây là loại cây trồng phù hợp nhất với điều kiện của vùng. Chính vì vậy hàng năm mặc dù Nhà nước có triển khai cho dân đăng ký trồng mỡ và keo nhưng hầu như các hộ dân chỉ tập trung trồng cây mỡ và quế, còn cây keo thì không phù hợp.