Cá Tra Đi Vào Nhu Cầu Của Thị Trường

Giá cá tra ở ĐBSCL sau ba tháng giảm, một tháng cầm cự, từ đầu tháng 10/2011 tiếp tục tăng mạnh lên 27.000 đồng/kg cá loại 1 và các nhà máy chế biến xuất khẩu lại trở nên sôi động.
Phó chủ tịch VASEP Dương Ngọc Minh cho biết, 9 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu cá tra đã vượt 1,2 tỷ USD. Trong quý 4/2011 đạt thêm khoảng 300 triệu USD, ước tính cả năm vượt mức 1,5 tỷ USD. Như thế, xuất khẩu cá tra tiếp một năm thành công dù trải qua nhiều thăng trầm.
Rõ nhất của ngành sản xuất và kinh doanh cá tra năm 2011 là phải đối mặt với tình trạng biến động nguyên liệu thường xuyên. Tuy nhiên, sự biến động có vẻ khớp với năm 2010 là đầu năm tăng liên tục, cuối quý 2 giảm cho đến đầu quý 3 và tiếp theo lại tăng. Dường như đã lộ ra một quy luật nào đó. Qua biến động, việc xây dựng vùng nguyên liệu tập trung và ổn định, đảm bảo quản lý tốt chất lượng, giảm chi phí đầu vào đã được các doanh nghiệp nỗ lực đầu tư.
Nhiều doanh nghiệp lớn đã có vùng nuôi quy mô. Theo Sở Công thương thành phố Cần Thơ, trong 9 tháng năm 2011, xuất khẩu thủy sản đạt trên 305,1 triệu USD, tăng 9,9% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 35,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của thành phố. Trong đó, các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra đã chủ động được 40 - 60% nguyên liệu chế biến cho nhà máy.
Khó khăn từ những rào cản thương mại, kỹ thuật ở các nước nhập khẩu cũng là trở ngại lớn mà doanh nghiệp phải đối mặt. Và đây cũng là những khó khăn tất yếu mà sản xuất và kinh doanh cá tra Việt Nam phải vượt qua, khi đã chiếm thị phần lớn trên nhiều nơi, lấn sân nhiều sản phẩm khác. Việc xử lý trục trặc với một số thị trường để vượt qua các rào cản khá thành công chứng tỏ sự trưởng thành.
Theo lãnh đạo một công ty xuất khẩu thủy sản ở Khu công nghiệp Trà Nóc 2, Cần Thơ, hiện công ty có 2 xưởng sản xuất cá tra fillet, công suất thiết kế 80 tấn sản phẩm/ngày, nhưng chỉ vận hành 50% công suất. Mặc dù đơn vị đã tập trung đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu 40 ha tại Cần Thơ và Hậu Giang phục vụ nhà máy chế biến, nhằm quản lý tốt đầu vào - đầu ra, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường xuất khẩu không chỉ có vùng nguyên liệu là đủ mà còn thực hiện rất nhiều việc khác. Đó là chất lượng hàng hóa và thị trường.
Có một nghịch lý, khi giá cá tra hạ, người nuôi kêu khó bán nhưng doanh nghiệp chế biến lại hoạt động cầm chừng, thậm chí kêu thiếu nguyên liệu. Đó là hậu quả của việc sản xuất và kinh doanh chưa xuất phát từ thị trường, nhất là chưa gặp nhau giữa doanh nghiệp chế biến xuất khẩu với người nuôi. Tại cuộc họp sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL do Bộ NN&PTNT tổ chức ở Cần Thơ cuối tháng 7/2011, trong khi người nuôi kêu khó bán cá tra và còn tồn đọng nhiều thì đại diện VASEP lại nói, đang thiếu nguyên liệu. Đại diện VASEP khẳng định, nếu cá kích cỡ 0,75 kg/con, thịt trắng thì có bao nhiêu mua hết bấy nhiêu. Còn tồn đọng là cá không đạt tiêu chuẩn và quá lứa.
Con cá tra có thịt trắng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường khó tính phải được nuôi bằng thức ăn công nghiệp đủ chuẩn với quy trình kỹ thuật chặt chẽ. Điều này chỉ đạt được bằng phương thức nuôi công nghiệp, được đầu tư lớn; không thể nuôi kiểu "tăng gia cải thiện" của phong trào "xóa đói giảm nghèo". Lại còn kích cỡ cá tra mỗi thị trường yêu cầu có khác nhau. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám chủ trì hội nghị khi đó đã yêu cầu cơ quan chuyên môn nghiên cứu về hiệu quả kinh tế của việc nuôi cá tra, với kích cỡ nào đạt được cao nhất và theo quy trình kỹ thuật như thế nào, để khuyến cáo người nuôi. Nghĩa là nuôi theo quy hoạch và kế hoạch, gắn kết chặt chẽ với chế biến xuất khẩu để chủ động đáp ứng nhu cầu của từng thị trường.
Nuôi cá tra ngày càng đòi hỏi phải nguồn vốn lớn, trong khi sản xuất gặp nhiều rủi ro vì phụ thuộc phần lớn vào thị trường xuất khẩu, đã có tác động tích cực thúc đẩy ngành kinh tế quan trọng này thoát nhanh khỏi tính tự phát. Mấy năm nay, lãnh đạo VASEP luôn đề nghị quy hoạch nuôi cá tra dừng lại ở mức dưới 1 triệu tấn/năm, để tăng chất lượng, tăng giá trị, chủ động hơn trên thị trường và năm 2011 kinh tế thế giới còn suy thoái mà xuất khẩu cá tra vẫn tiến triển có thể thấy sư đúng đắn của hướng đi.
Phó chủ tịch VASEP Dương Ngọc Minh cho biết, từ đầu tháng 9, nhiều nhà nhập khẩu ở thị trường châu Âu đã sang Việt Nam đặt hàng cá tra. Hầu hết, các nhà đặt hàng yêu cầu cá tra loại 0,85 kg/con. Dù còn nhiều khó khăn, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu vẫn đáp ứng, chứng tỏ sản xuất và kinh doanh cá tra Việt Nam đã rất năng động.
Có thể bạn quan tâm

Cụ thể, đối với cá sấu thịt bán nguyên con để lấy da loại 7-15kg/con chỉ còn 230.000 đ/kg, giảm 50.000 -70.000 đ/kg; cá sấu con loại 1 tháng tuổi còn 200.000 đ/con, giảm 100.000 -120.000 đ/con. Còn đối với thị trường trăn lấy da XK, giá giảm từ 200.000 -220.000 đ/con, hiện trăn thịt lấy da, loại 1 năm tuổi giá giảm xuống còn 280.000 đ/kg; trăn giống 1 tuần tuổi còn 260.000 đ/con, giảm 100.000 đ.

Nhằm giúp người dân thêm điều kiện thoát nghèo, đầu năm 2012, từ nguồn vốn Dự án Giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn II, Ban Quản lý Dự án Giảm nghèo huyện Mường Chà đã triển khai dự án nuôi dê núi tại 8 xã: Sa Lông, Mường Mươn, Ma Thì Hồ, Sá Tổng, Pa Ham, Nậm Nèn, Huổi Mí và Hừa Ngài. Tham gia dự án có 493 hộ dân.

Vài năm trở lại đây, nhờ mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, sản xuất, tận dụng triệt để lợi thế về điều kiện tự nhiên như: khí hậu, thổ nhưỡng... đã giúp nhân dân Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông từng bước thoát nghèo. Hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo của xã còn 58%, giảm 4,5% so với năm 2012.

“Không chỉ là trưởng bản gương mẫu, đi đầu trong các phong trào của thôn, bản, giúp đỡ bà con từng bước xóa đói giảm nghèo, chị Lò Thị Việt ở bản Ho Luông 1 còn là điển hình phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu từ thất bại”, đó là chia sẻ của ông Khoàng Văn Tiến, Chủ tịch UBND xã Lay Nưa, T.X Mường Lay khi nói về nữ trưởng bản Lò Thị Việt. Cách đây 5 năm, cuộc sống của gia đình chị Việt còn nhiều thiếu thốn.

Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, việc canh tác cây ngô tại một số vùng trên địa bàn huyện có dấu hiệu chững lại cả về diện tích và năng suất. Làm gì để tháo gỡ những khó khăn, bất cập trong thực hiện chiến lược phát triển cây ngô tại địa phương là nội dung cấp ủy, chính quyền các cấp và các cơ quan chuyên môn trên địa bàn luôn quan tâm, trăn trở.