Cá Rô Phi Ăn Gì?

Cá rô phi vằn có thể sinh trưởng và phát triển ở cả môi trường nước ngọt, lợ, mặn. Tuy cá rô phi vằn có thể sinh sống một thời gian ngắn ở ở nước biển có độ mặn tới 32%, nhưng loài này vẫn là loài hẹp muối hơn những loài cá rô phi khác.
Cá rô phi vằn có thể sống trong hàm lượng ôxy thấp tới 1 mg/l và ngưỡng ôxy chết cá là 0,3-0,1 mg/l. Tuy nhiên, nếu hàm lượng ôxy hòa tan trong nước thấp kéo dài sẽ làm cá chậm lớn rõ rệt.
Giới hạn chịu độ ph là 5-11 nhưng tốt nhất là môi trường trung tính hoặc kiềm yếu. Cá có khả năng chịu amôniac tới 2,4 mg/l. Nhiệt độ thích hợp cho cá phát triển là 25-35oC và nhiệt độ gây chết là 11-12oC.
Bộ máy tiêu hóa của cá rô phi gồm thực quản ngắn, dạ dày nhỏ, ruột dài và uốn khúc nhiều, dài gấp 14 lần chiều dài thân cá. Miệng khá rộng, hướng lên trên. Răng hàm ngắn và nhiều, xếp lộn xộn.
Với cấu tạo này đã làm cho tính ăn của cá rô phi vằn có những điểm đáng chú ý: đây là loài cá ăn tạp; chúng ăn tảo sợi, các loại động thực vật phù du, mùn bã hữu cơ, ấu trùng của các loại côn trùng, động vật sống ở nước, cỏ, bèo và cả phân hữu cơ. Cá có khả năng ăn thức ăn tinh bổ sung như cám gạo, bột ngô, bánh khô dầu và các phụ phế phẩm khác.
Ở giai đoạn cá hương, rô phi vằn ăn sinh vật phù du mà động vật là chủ yếu và một ít là thực vật. Từ giai đoạn cá giống đến cá trưởng thành, rô phi vằn chủ yếu ăn mùn bã hữu cơ và thực vật phù du; chúng có khả năng tiêu hóa và hấp thụ 70-80% tảo lục, tảo lam mà một số loài cá khác khó có khả năng tiêu hóa.
Nuôi trong các ao bón nhiều phân, thực vật phù du phát triển mạnh (các nhà nuôi cá trên thế giối gọi đây là “kiểu nuôi cá rô phi trong nước xanh”) có thể thấy phân cá có những màu xắc khác nhau. Ở điều kiện bình thường, cá rô phi vằn tiêu hóa các tế bào thực vật phù du ở trong ruột nhờ dịch axit của dạ dày tiết ra: pH thấp tới 1,25; thậm chí có khi pH là 1,0.
Hiện tượng tiết ra chất axit của dạ dày này thường chỉ diễn ra vào ban ngày. Đến cuối ngày cá ngừng tiết axit hoặc vì một lý do nào đó quá trình tiết axit này bị ngừng, pH lại trở về 5-7, thực vật phù du sẽ không được cá tiêu hóa; phân cá thải ra sẽ có màu nâu hoặc xanh.
Quá trình di chuyển của thức ăn trong ruột cá rô phi từ miệng đến hậu môn mất 7 giờ.
Nếu so sáng nhu cầu dinh dưỡng của cá rô phi vằn với cá chép lai thì thấy 2 loài cá này có nhu cầu khá giống nhau về thành phần tinh bột (dưới 40%), caxi (1,5-2%), P (1-1,5%), K, Na… chỉ khác là lượng yêu cầu về đạm của cá rô phi (28%) thấp hơn yêu cầu về đạm của cá chép (30%). Vì vậy đối với thức ăn nhân tạo dùng cho nuôi cá rô phi vằn không nên đưa quá nhiều đạm vào thành phần vì sẽ lãng phí và tăng chi phí sản xuất.
Có thể bạn quan tâm

Nuôi cá rô phi trong lồng không phải là việc mới. Philipin là một nước Đông Nam Á nuôi cá rô phi trong lồng rất có kết quả. Ở nước ta, việc nuôi cá rô phi trong lồng từ cỡ cá giống lên cỡ cá thịt trong thời gian 3 tháng đã được Viện Nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản 1 tiến hành tại hồ chứa nước suối Hai (huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) trong hai năm liên tục (1996 – 1997).

Nuôi cá rô phi cao sản với 3 qui mô: nhỏ (diện tích dưới 1.000m2), vừa (diện tích dưới 4.000m2) và lớn (diện tích trên 10.000m2). Nuôi ở qui mô nhỏ có thể đạt 20 – 24 tấn/ha/năm (với 3 vòng nuôi cá thịt); còn ở qui mô vừa và lớn, năng suất đạt từ 16 – 18 tấn/ha/năm (với 2 vòng cá thịt, 1 vòng cá giống).

Do tính ăn tạp và chịu đựng giỏi trong các môi trường nước xấu mà cá rô phi được coi là loài cá dễ nuôi nhất! Ở nhiều nước châu Phi và ngay ở các nước gần ta như Thái Lan, Philipin…

Hiện nay ở nhiều địa phương đang nuôi phổ biến hai loại cá rô phi: rô phi đen giống cũ (tên khoa học là oreochromis mossambicus) và rô phi vằn giống mới đưa từ miền nam ra miền Bắc năm 1977 (tên khoa học là oreochromis niloticus).

Tuổi và kích thước thành thục lần đầu của cá rô phi phụ thuộc vào loài cá, môi trường sống và chế độ dinh dưỡng của cá. Sống trong điều kiện thuận lợi, giàu thức ăn cá lớn nhanh và phát dục cỡ lớn. Còn khi sống ở nơi thiếu thức ăn, cá sẽ thành thục cỡ nhỏ.