Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Cà Phê Đặc Sản Lâm Đồng: Thuận Nhưng Chưa Lợi

Cà Phê Đặc Sản Lâm Đồng: Thuận Nhưng Chưa Lợi
Ngày đăng: 28/07/2014

Nằm ở độ cao từ 1.000m-1.500m, vùng đất các huyện, thành phía Bắc Lâm Đồng rất “thuận” về khí hậu, thổ nhưỡng để sản xuất các giống cà phê chè đặc sản có hương vị thơm ngon khác biệt, giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, lợi thế này đến nay vẫn chưa được phát huy tương xứng.

Cà phê chè (còn gọi là cà phê Arabica) có nguồn gốc từ vùng Nam Mỹ, di thực vào vùng đất Lâm Đồng từ những năm 30 của thế kỷ 20. Trải qua những thời kỳ thăng trầm, Lâm Đồng nói riêng và cả nước nói chung hiện đang giữ lại 2 giống cà phê chè là cà phê catimor và cà phê moka để sản xuất, nhưng với quy mô và điều kiện canh tác còn gặp nhiều hạn chế.

Theo Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, giai đoạn từ năm 1997 - năm 2000, từ nguồn vốn hỗ trợ của Quỹ AFD của Pháp, do quy hoạch những vùng sinh thái không phù hợp; hoặc phù hợp nhưng quy trình tác động kỹ thuật, quản lý dịch hại tổng hợp còn bất cập; trong khi phần lớn giống cây cà phê cũ thoái hóa… khiến cho dự án phát triển 40.000ha cà phê chè của Việt Nam đã không thành công như kế hoạch đề ra.

Đến thời điểm cuối tháng 7/2014, cả nước đang trồng 30.000ha cà phê chè, trong đó chiếm 50% diện tích trồng ở các vùng đất phía Bắc Lâm Đồng (khoảng 15.000ha); 15.000ha diện tích cà phê chè còn lại được trồng rải rác ở những địa hình đồi núi cao thuộc các tỉnh như: Sơn La (6.000ha), Quảng Trị (5.000ha), Điện Biên (3.000ha) và Nghệ An (1.000ha)…  

Kết quả khảo nghiệm của Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên cho biết, năng suất cà phê chè ở Việt Nam (chủ yếu là giống catimor) đang đạt ở mức “quá khiêm tốn” so với tiềm năng về đất đai, thời tiết.

Cụ thể, năng suất thu hoạch cà phê chè (thu hạt nhân) chỉ mới đạt từ 0,68 tấn - 1,4 tấn/ha ở các tỉnh Thừa Thiên - Huế, Hòa Bình và Lâm Đồng; các tỉnh đạt từ 1,6 tấn - 1,84 tấn/ha gồm Sơn La, Quảng Trị, Nghệ An và Đắc Lắk.

Nguyên nhân được phân tích là: Giống cà phê chè catimor (chiếm trên 95% diện tích cà phê chè Việt Nam) đang trồng và chăm sóc với mật độ khá dày, khả năng đề kháng không cao đối với bệnh rỉ sắt và các bệnh “có tính chất hủy diệt khác”. Bên cạnh đó, thói quen của nông dân thường thu hoạch quả xanh và chế biến khô (ước khoảng 30 - 40% diện tích) đã ảnh hưởng đến sự ổn định của năng suất và chất lượng chung trên từng vụ mùa.

Thị trường tiêu thụ giống cà phê chè đặc sản ở Lâm Đồng (và cả nước) luôn cao gấp 2 lần trở lên so với giống cà phê vối, tính theo tỷ giá USD vào thời điểm cuối tháng 7/2014, ước đạt khoảng 4USD/kg, thấp hơn 25 lần so với cà phê đặc sản Blue Mountain của Jamaica.

Theo tiến sĩ Lê Ngọc Báu, Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, Lâm Đồng có rất nhiều yếu tố “thuận” để phát triển và nâng cao chất lượng cà phê chè đặc sản này làm cơ sở từng bước “tiệm cận” với giá trị cà phê đặc sản của thế giới.

Bởi không chỉ với lợi thế về khí hậu và thổ nhưỡng như đã nêu trên, Lâm Đồng còn là địa phương đi đầu cả nước về ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, trong đó có nhiều kinh nghiệm về sản xuất cà phê an toàn, bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế; đã xây dựng thương hiệu “Cà phê Arabica Langbian” và thương hiệu “Cà phê Di Linh” đang cùng khẳng định mình trên thương trường trong và ngoài nước.

Nhằm tạo bước đột phá lợi nhuận về cà phê chè đặc sản của mình, trước hết Lâm Đồng cần rà soát lại toàn bộ quy hoạch các vùng chuyên canh để điều chỉnh, bổ sung thực sự phù hợp hơn. Kế tiếp cần thay đổi nguồn giống cà phê chè đặc sản giống cũ sang trồng giống mới chất lượng cao đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận.

Đó là 2 giống cà phê chè mới TN1, TN2 do các nhà khoa học trong nước lai tạo, qua khảo nghiệm đã chứng tỏ khả năng kháng được bệnh rỉ sắt, tăng thêm năng suất từ 25- 32% so với các giống cà phê chè truyền thống đang trồng.

Và hơn nữa, Lâm Đồng cũng nên tổ chức, vận hành lại các mô hình chuỗi giá trị cà phê chè đặc sản, tạo ra mối liên kết ổn định và  phát triển đi lên đồng bộ giữa các khâu từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, mở rộng thị trường xuất khẩu.


Có thể bạn quan tâm

Nuôi Cá Lồng Gặp Khó Ở Hải Dương (Thừa Thiên - Huế) Nuôi Cá Lồng Gặp Khó Ở Hải Dương (Thừa Thiên - Huế)

Nhờ nghề nuôi cá lồng bà con ngư dân ở Chi hội nghề cá Hương Giang (xã Hải Dương, Hương Trà) trở nên khấm khá. Tuy nhiên, ba năm trở lại, nghề nuôi cá lồng gặp nhiều khó khăn.

08/04/2013
Thả Tôm, Cá Tái Tạo Nguồn Lợi Thủy Sản Ở Quảng Ngãi Thả Tôm, Cá Tái Tạo Nguồn Lợi Thủy Sản Ở Quảng Ngãi

Bà Nguyễn Thị Thúy Hà - Giám đốc Trung tâm Giống Quảng Ngãi cho biết, sáng 5/4, Trung tâm đã phối hợp với huyện Lý Sơn tổ chức thả 1 triệu con tôm sú 25 ngày tuổi tại vùng biển Lý Sơn.

08/04/2013
Nâng Cao Hiệu Lực, Hiệu Quả Trong Quản Lý Nuôi Trồng Thủy Sản Nâng Cao Hiệu Lực, Hiệu Quả Trong Quản Lý Nuôi Trồng Thủy Sản

Thời gian gần đây, việc nuôi trồng thủy sản ở Phú Yên phải đối mặt với nhiều khó khăn, diện tích ao đìa nuôi trồng thủy sản của năm 2012 chỉ 2.635 ha, giảm 12% so với năm 2011; sản lượng nuôi trồng thủy sản các loại đạt 7.934 tấn, giảm 20%, do dịch bệnh xảy ra trên diện rộng.

08/04/2013
Giá Cá Điêu Hồng Tăng Lên 42.500 Đồng/kg Giá Cá Điêu Hồng Tăng Lên 42.500 Đồng/kg

Ngày 4-7, ông Nguyễn Văn Thành, nông dân nuôi cá điêu hồng ở phường Tân Long, TP. Mỹ Tho (Tiền Giang) cho biết, giá cá điêu hồng đã tăng lên 42.500 đồng/kg, cao hơn cùng kỳ năm ngoái 18.000 đồng/kg; cá điêu hồng giống cũng có giá từ 30.000 - 41.000 đồng/kg (tùy kích cỡ).

08/07/2013
Hiệu Quả Bước Đầu Từ Mô Hình Nuôi Gà Ri Lai Ở Phú Thọ Hiệu Quả Bước Đầu Từ Mô Hình Nuôi Gà Ri Lai Ở Phú Thọ

Nằm trong dự án phát triển nông thôn trong giai đoạn hiện nay, xã Hùng Lô được UBND thành phố Việt Trì (Phú Thọ) đầu tư dự án nuôi thí điểm gà ri lai thả đồi, vườn. 35 hộ trải đều ở 10 khu dân cư trong xã được lựa chọn mô hình nuôi gà thí điểm, đó là những hộ có diện tích đồi, vườn phù hợp, có nhân công lao động, nhiệt huyết chăn nuôi, kinh tế ổn định. Với tổng đàn 7000 con gà 1 ngày tuổi, bình quân 200 con/hộ, các hộ chăn nuôi được hỗ trợ 100% con giống, 30% thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y trong thời gian 4 tháng khi gà đảm bảo thời gian xuất bán.

08/04/2013