Bón phân đa yếu tố NPK cho cây chè kinh doanh ở Phú Thọ

Giải pháp nâng cao chất lượng, năng suất cây chè
Phú Thọ là tỉnh chè với diện tích 16.300ha, năng suất trung bình tại địa phương chỉ là 6 – 8 tấn/ha, giá búp tươi bị ép giá rất thấp có lúc tới 3.700 đồng/kg.
Có một nghịch lý là cũng tại Phú Thọ, có 2 công ty chè nước ngoài Phú Đa và Phú Bền do nhiều năm nay mỗi năm sử dụng 3.000 tấn phân chuyên dụng Văn Điển đã đạt năng suất 15-20 tấn/ha, cá biệt 25 tấn/ha, chè xuất khẩu được tham gia trong mạng lưới phân phối toàn cầu Unilever...
Nguyên nhân chủ yếu do người sản xuất chỉ sử dụng các loại phân bón NPK, phân vô cơ chăm sóc theo truyền thống, bón không cân đối; lượng phân hữu cơ bón cho chè ngày càng giảm làm đất bị thoái hóa, giảm năng suất và chất lượng nương chè.
Trước tình hình sa sút về uy tín và thị phần của sản phẩm chè ngày càng giảm, sản xuất chè ngày càng gặp khó khăn, tỉnh Phú Thọ đã ứng dụng nhiều giải pháp kỹ thuật và quản lý canh tác chè, đưa vào sử dụng phân chuyên dùng Văn Điển cho chè và tìm ra cây che bóng phù hợp – cây xoan, đã giúp cải tạo đất, cân bằng độ ẩm, tạo môi trường thuận lợi cho cây chè phát triển.
Lãnh đạo ban ngành của tỉnh Phú Thọ thăm mô hình “Bón phân chuyên dùng Văn Điển cho chè kinh doanh ở Phú Thọ.
Mô hình trình diễn phân bón chuyên dùng chè: (Sử dụng giống chè mới đang giai đoạn kinh doanh, tiềm năng năng suất 15 – 17 tấn/ha).
Phân bón chuyên dùng chè NPK đa yếu tố Văn Điển:
Được dùng trong mô hình là loại phân đa yếu tố phục vụ thâm canh: NPK 4:1:2 với công thức chung là 22:5:11 (N 22%; P 5%; K 11%; S 2%, MgO 5%; CaO 9%; SiO2 8%; Fe, Zn, B, Cu, Mn, Co, Mo…).
Thành phần chủ lực trong phân đa yếu tố NPK chuyên dùng cho cây chè là phân lân nung chảy Văn Điển có tính kiềm (pH: 8 - 8,5), không độc hại, không tan trong nước mà tan hết trong dịch chua của rễ cây, nên khi bón vào đất không bị rửa trôi, cung cấp lân và các chất dinh dưỡng đa, trung vi lượng cho cây trồng và nâng pH các nương chè nên mức 4,5 – 5,5 phù hợp với cây chè.
Trên lô đối chứng: Sử dụng phân NPK 5-10-3, NPK 12-5-10, urea, KCl truyền thống.
Lượng phân bón cho lha tại Vân Lĩnh:
NPK 4.1.2: l.800kg với giá mua 13.140.000 đồng. Quy trình bón: Bón phân lần 1: 900kg bón vào cuối tháng 4 khi có mưa ẩm; bón phân lần 2: 450kg bón tháng 6; bón phân lần 3: 450kg bón vào tháng 9.
- Đối chứng (bón theo truyền thống tại địa phương) gồm: 2.130kg phân NPK 12:5:10 + đạm ure: 200kg, với tổng chi phí: 16.284.000 đồng.
(Như vậy lượng phân bón trên mô hình ít hơn trên lô đối chứng là 2.130kg – 1.800kg = 330kg; về tiền thấp hơn đối chứng là 16.284.000 – 13.140.000 = 3.144.000 đồng).
Lượng phân bón cho lha tại xã Võ Miếu: Chuyên dùng Văn Điển đa yếu tố NPK 4.1.2: l.350kg với giá mua 9.855.000 đồng.
- Đối chứng: Sử dụng 2.385 kg gồm: 1.385kg phân NPK 5:10:3 + phân NPK 12:5:10: 700 kg đạm ure: 300kg, với tổng chi phí: 14.029.000 đồng.
(Như vậy lượng phân bón trên mô hình ít hơn trên lô đối chứng là 2.385kg – 1.350kg = 1.035kg, về tiền thấp hơn đối chứng là 14.029.000 – 9.855.000 = 4.174.000 đồng).
Kỹ thuật bón: Dùng cuốc gạt nhẹ lớp rác bên trên sau đó bón vào giữa 2 hàng chè, bón sau khi trời mưa đất có đủ độ ẩm.
Bà con cũng đã tuân thủ kỹ thuật bón:
Khi chăm bón, không bón trên tán chè, không bón khi thời tiết nắng nóng sẽ dẫn đến phân bốc hơi và khi gặp thời tiết mưa to phân bị rửa trôi.
Sử dụng máy hái chè ở chính vụ thu hoạch nhằm giảm thiểu công lao động. Phòng trừ sâu bệnh tổng hợp (IPM).
Khi cần phun thuốc sử dụng máy phun thuốc động cơ nhằm tạo hiệu quả phòng trừ cao.
Năm 2015 thời tiết diễn biến rất phức tạp: Hạn hán kéo dài, xuất hiện nhiều đợt nắng nóng kỷ lục, sâu bệnh gây hại nặng nhiều lứa xen kẽ.
Qua theo dõi nương chè đánh giá tình hình sâu bệnh như sau:
Lứa hái 1 cao điểm gây hại rầy xanh; lứa hái 2 thời tiết nắng nóng tạo điều kiện cho nhện đỏ phát triển, tuy nhiên do sử dụng phân chuyên dùng và trồng cây che bóng nên tỷ lệ hại thấp hơn so với đối chứng; lứa hái 3 và 4 do điều kiện thời tiết nắng mưa xen kẽ bọ cánh tơ xuất hiện gây hại.
Trong mô hình do tuân thủ quy trình chăm sóc:
Bón đủ lượng phân, trồng cây che bóng, cân bằng dinh dưỡng đa, trung, vi lượng, cân bằng độ ẩm nên cây chè sinh trưởng phát triển khỏe, hạn chế đáng kể sâu, bệnh phát sinh gây hại.
Bên cạnh đó công tác phun thuốc bảo vệ thực vật được tiến hành kịp thời, phun đồng loạt, tập trung, nông dân tuân thủ sự chỉ đạo, hướng dẫn của cán bộ chuyên môn nên công tác phòng trừ đạt hiệu quả cao, số lần phun thuốc giảm hơn so với đối chứng 4 lần phun.
Năng suất tăng, sâu bệnh giảm
Tại xã Vân Lĩnh (Thanh Ba):
Hộ ông Mai Ngọc Chiến có 1ha, qua 4 lần hái đã thu được 16.209kg búp (ở lô đối chứng chỉ đạt 1.459kg) tăng 14,9%, hộ ông Nguyễn Tiến Trường (0,5ha) tăng 16,1%, hộ bà Nguyễn Thị Hoa (0,5ha) tăng 15,4%, hộ ông Nguyễn Văn Điện (đạt 16.620kg/ha) tăng 16,4%, bình quân toàn mô hình 3ha đã thu được 16.161 kg, đối chứng 13.161kg, tăng 15,7%/ha.
Qua sơ bộ hạch toán kinh tế đã cho thấy mô hình phù hợp với sản xuất của nông dân, năng suất tăng đạt năng suất tối đa của giống chè, năng suất tăng dần theo các lứa hái, lứa hái 1 năng suất tăng so với đối chứng thấp nhất (tăng 1,5 – 4,2%), lứa hái 2 tăng so với đối chứng 6 – 8,9%, cao nhất là lứa hái 3 (tăng 25,4 – 27,2%); số công lao động giảm, số lần phun thuốc giảm, lợi nhuận mang lại cao, cho lãi 31.403.000 đồng/ha, cao hơn so với ngoài mô hình là 13.436.000 đồng/ha.
Tại xã Võ Miếu (Thanh Sơn):
Không trồng cây che bóng, lô đối chứng sâu bệnh gây hại nặng, xuất hiện thường xuyên, nên số lần phun thuốc mỗi lứa hái từ 2-3 lần.
Tuy nhiên trong mô hình sử dụng phân bón chuyên dùng Văn Điển chè đanh búp, ngoại hình của các mẫu chè có thoáng tuyết, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, số lần phun thuốc giảm so với lô đối chứng trong 3 lứa hái là 2 lần.
Kết quả năng suất chè qua 3 lứa hái do bón phân chuyên dùng NPK 4.1.2 Văn Điển tăng dần theo các lứa hái, lứa hái 1 năng suất tăng so với đối chứng thấp nhất (tăng 3,3%), lứa hái 2 tăng so với đối chứng 7,7%, cao nhất là lứa hái 3 (tăng 15,2%).
Qua 3 lứa hái nương chè sử dụng phân NPK4.1.2 Văn Điển cho hiệu quả kinh tế cao hơn nương chè bón phân theo tập quán, cho lãi 18.379.000 đồng, cao hơn so với đối chứng là 8.243.000 đồng/ha.
Theo Ông Hoàng Văn Tại - Tổng Giám đốc Công ty CP Phân lân Văn Điển, do phân chuyên dùng Văn Điển chứa đủ và cân đối dinh dưỡng đa, trung, vi lượng nên hàm lượng chất khô trong búp chè tăng cao vì vậy năng suất chè sẽ còn tăng ở khâu sao chè.
Theo kinh nghiệm các đơn vị đã sử dụng phân chuyên dùng Văn Điển, khi sao chè sẽ chỉ tốn khoảng 4 - 4,25kg búp tươi để được 1kg búp khô, trong khi chè canh tác theo truyền thống phải 5kg búp tươi mới cho 1kg chè khô.
Kết quả năng suất chè qua 3 lứa hái do bón phân chuyên dùng NPK 4.1.2 Văn Điển tăng dần theo các lứa hái, lứa hái 1 năng suất tăng so với đối chứng thấp nhất (tăng 3,3%), lứa hái 2 tăng so với đối chứng 7,7%, cao nhất là lứa hái 3 (tăng 15,2%).
Qua 3 lứa hái nương chè sử dụng phân NPK4.1.2 Văn Điển cho hiệu quả kinh tế cao hơn nương chè bón phân theo tập quán, cho lãi 18.379.000 đồng, cao hơn so với đối chứng là 8.243.000 đồng/ha.
Có thể bạn quan tâm

Tuy nhiên, Thứ trưởng lưu ý, hiện cả DN lẫn nông dân đều lo lắng là dịch bệnh trên thủy sản (chủ yếu trên tôm nước lợ) như đốm trắng, gan thận… gây thiệt hại và ảnh hưởng tới mục tiêu XK. Do đó, việc Ban chỉ đạo Phòng chống dịch bệnh thủy sản đi vào hoạt động là một bước để hướng tới kiểm soát hoạt động nuôi trồng, chế biến thủy sản an toàn, gia tăng giá trị XK.

Năm 2010 xã Na Sang, huyện Mường Chà có 68% hộ nghèo. Không trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, nhiều hộ dân đã mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, nhiều diện tích lúa kém hiệu quả sang trồng dứa, đậu tương, cao su… Đến nay, Na Sang đã có nhiều đổi thay, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn trên 40%.

Hơn 1 tháng trở lại đây, trên địa bàn huyện Mường Ảng xuất hiện nhiều trận mưa lớn, gây thiệt hại về tài sản và hoa màu của người dân. Trong đó, mưa lũ đã làm 125m kênh thủy lợi tại các xã: Ẳng Cang, Ẳng Tở, Mường Lạn, Ngối Cáy bị hư hỏng; 1km kênh mương bị vùi lấp; hơn 650m3 đất, đá sạt xuống các tuyến giao thông trên địa bàn.

Ông Đỗ Thái Hùng, Bí thư chi bộ ấp Bình Thuận, xã Tam Bình (Cai Lậy, Tiền Giang) cho biết: "Trái sầu riêng rải vụ năm 2014 đang đạt giá kỷ lục, gần 100.000 đ/kg. Sau khi trừ chi phí đầu tư, nhà vườn thu lãi khoảng 80% so với giá bán. Hiệu quả của việc SX trái cây rải vụ đã rõ.

Cụ thể, tôm chân trắng loại 60 con/kg đang được thương lái thu mua với giá 116.000 đ/kg; loại 70 con/kg có giá 112.000 đ/kg; loại 90 con/kg có giá 100.000 - 104.000 đ/kg; tôm sú loại 20 con/kg đang ở mức giá 260.000 - 270.000 đ/kg, tôm sú loại 30 con/kg giá 225.000 - 230.000 đ/kg, tăng bình quân khoảng 20.000 đ/kg so với cuối tháng 5/2014.