Bộ Tài Chính Hướng Dẫn Về Phương Pháp Tính Giá Thành Cá Tra Nguyên Liệu

Ngày 18/12/2014, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 198 /2014/TT-BTC hướng dẫn về phương pháp tính giá thành cá tra nguyên liệu, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/02/2015.
Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp điều tra, xác định chi phí sản xuất, tính giá thành cá tra nguyên liệu của các vụ sản xuất trong điều kiện sản xuất bình thường không có thiên tai, dịch bệnh.
Theo Thông tư, việc thực hiện điều tra, khảo sát và tổng hợp số liệu điều tra, khảo sát để xác định chi phí sản xuất, tính giá thành cá tra nguyên liệu thực tế phải dựa trên những nguyên tắc: Trình độ và điều kiện sản xuất; Tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất thực tế của các cơ sở nuôi cá tra;
Tài liệu ghi chép, phỏng vấn, điều tra, xác minh trực tiếp từ cơ sở nuôi và người lao động ; Số liệu thống kê tối đa trong 3 năm liền kề; Giá thị trường tại thời điểm hoặc gần nhất với thời điểm cần xác định chi phí sản xuất và tính giá thành cá tra nguyên liệu;
Chi phí sản xuất quy về cho một hecta (đồng/ha mặt nước nuôi); Đơn vị tính năng suất cá tra nguyên liệu thống nhất tấn/ha mặt nước nuôi; Đơn vị tính giá thành cá tra nguyên liệu là đồng (VNĐ) cho một kg (đồng/kg) và được xác định tại nơi sản xuất.
Căn cứ các hướng dẫn tại Thông tư này, định kỳ ít nhất 2 lần/năm, Sở Tài chính, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức điều tra, khảo sát chi phí sản xuất và tính giá thành cá tra nguyên liệu; tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát theo phụ lục kèm theo.
Đồng thời, gửi Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo dõi vào ngày 1/6 và ngày 1/12 hàng năm và Hiệp hội cá Tra Việt Nam để tổng hợp, công bố giá sàn cá tra nguyên liệu theo quy định tại Nghị định số 36/2014/NĐ-CP. Kinh phí cho việc khảo sát, điều tra xác định chi phí sản xuất, tính giá thành cá tra nguyên liệu áp dụng theo các quy định hiện hành về việc quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện các cuộc điều tra được chi từ ngân sách các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Có thể bạn quan tâm

Thông tin này lan sang Cà Mau thế là ghe câu mực chuyển nghề. Ðáng nói là từ mức chào giá ban đầu ngất ngưởng gần 1 triệu đồng/kg, nay banh lông rớt xuống chỉ còn trên dưới 150.000 đồng/kg. Do chỉ duy nhất một đầu ra là thương lái Trung Quốc khiến giá cả con banh lông bấp bênh.

Không cần lặn lội đi xa mới mua được con giống vì ở trong tỉnh Quảng Ngãi đã có nơi cung ứng giống cá này. Thức ăn “xanh” cho cá chủ yếu là cỏ và lá mì có sẵn ở địa phương. Vật liệu làm lồng nuôi chỉ bằng tre… Nhiều hộ nuôi cá trắm cỏ đã tận dụng lợi thế, khai thác được con nước sông Trà Khúc chảy qua địa phương để phát triển kinh tế.

Loại cá sấu được các cơ sở ở Đồng Nai nuôi đều là cá sấu nước ngọt. Nguồn giống phần lớn được mua từ miền Tây, sau 1,5 - 2 năm nuôi cá sấu đạt 20 - 30 kg/con là xuất chuồng. Có những thời điểm như giữa năm 2014, giá cá sấu lên đến 280 ngàn đồng/kg, song hiện nay đã “hạ nhiệt” xuống còn 210 ngàn đồng/kg. Cá sấu chỉ cần trên 100 ngàn đồng/kg trở lên là đã rất hấp dẫn người nuôi.

Chi cục Nuôi trồng thủy sản tỉnh Thừa Thiên Huế thông tin, sau 8 tháng nuôi thử nghiệm 2 lồng cá hồng, chim trắng vây vàng, cá dìa bằng công nghệ Đan Mạch, tại hai xã Lộc Bình (Phú Lộc) và Hải Dương (Hương Trà), Chi cục Nuôi trồng thủy sản tỉnh đã tổng kết mô hình.

Trong đó, diện tích thả nuôi tôm sú công nghiệp chiếm khoảng 300 ha với 435 hộ nuôi, năng suất bình quân đạt từ 4 – 6 tấn/ha; diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng trên 1.600 ha với gần 2.800 hộ nuôi, năng suất bình quân đạt từ 6 – 7 tấn/ha, tập trung tại các xã: Tân Hải, Phú Tân, Phú Thuận, Nguyễn Việt Khái, Việt Thắng và thị trấn Cái Đôi Vàm.