Bến Tre Điều Chỉnh Qui Hoạch Nuôi Tôm Chân Trắng

Nuôi tôm chân trắng (TCT) ngoài vùng qui hoạch đang là bức xúc không chỉ của ngành nông nghiệp, chính quyền địa phương mà cả người nuôi.
Tình trạng nuôi TCT tràn lan, trong vùng ngọt hóa ngày càng gia tăng, chưa có giải pháp ngăn chặn kịp thời. Để giải quyết bài toán khó này, UBND tỉnh Bến Tre vừa phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch chi tiết nuôi TCT trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Quy hoạch xác định đối tượng TCT là một trong những mặt hàng chiến lược của tỉnh và là sản phẩm xuất khẩu thủy sản của quốc gia cũng như cung cấp nhu cầu thủy sản trong nước. Vì vậy, cần phát triển nuôi tôm theo hướng bền vững về môi trường, hiệu quả về mặt kinh tế, ổn định về xã hội; kết hợp hài hòa giữa nuôi TCT với các mô hình sản xuất nông nghiệp khác; hình thức nuôi thâm canh, năng suất cao và được sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan, ban ngành hữu quan.
Quy hoạch đề ra các chỉ tiêu cụ thể như, đối với diện tích nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh sẽ chuyển 428ha sang nuôi TCT và sẽ còn lại 4.072ha. Diện tích nuôi tôm sú quảng canh cải tiến chuyển 202ha sang nuôi TCT, còn lại 13.149ha. Diện tích nuôi tôm sú - lúa chuyển 1.280ha sang nuôi TCT, còn lại 7.620ha. Bổ sung phần đất ngoài đê một số xã thuộc địa bàn 5 huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam.
Quy hoạch đối tượng TCT dựa trên lợi thế giữa các đối tượng nuôi và các ngành kinh tế khác; tránh xung đột với các đối tượng khác trong vùng quy hoạch; áÙp dụng những thành tựu về khoa học công nghệ, những kỹ thuật tiên tiến trong quy trình nuôi tôm thâm canh; khoanh vùng nuôi tập trung hợp lý, kiểm soát được dịch bệnh, môi trường; tạo công ăn việc làm, thu nhập ổn định cho một lượng lớn lao động tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc nuôi đối tượng này.
Dự kiến đến năm 2015, diện tích nuôi TCT toàn tỉnh đạt 4.390ha, đến năm 2020 đạt 7.820ha và định hướng đến 2030 đạt 8.300ha (Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 14,1%/năm giai đoạn 2014-2015, đạt 12,2%/năm giai đoạn 2016-2020 và định hướng cho giai đoạn 2021-2030 đạt 0,6%/năm).
Sản lượng đến năm 2015 đạt 41.340 tấn, đến năm 2020 đạt 75.750 tấn và định hướng đến năm 2030 đạt 80.520 tấn (Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 24,1%/năm giai đoạn 2014-2015, đạt 12,9%/năm giai đoạn 2016-2020 và định hướng cho giai đoạn 2021-2030 đạt 0,6%/năm). Giá trị sản xuất đến 2015 đạt 2.440 tỷ đồng, đến năm 2020 đạt 4.460 tỷ đồng và định hướng đến 2030 đạt 4.750 tỷ đồng (Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 22,5%/năm giai đoạn 2014-2015, đạt 12,8%/năm giai đoạn 2016-2020 và định hướng cho giai đoạn 2021-2030 là 0,6%/năm).
Giá trị xuất khẩu đến năm 2015 đạt 210 triệu USD, đến năm 2020 đạt 410 triệu USD và định hướng đến năm 2030 đạt 440 triệu USD (Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 14,3%/năm giai đoạn 2016-2020 và định hướng cho giai đoạn 2021-2030 đạt 0,7%/năm). Lao động đến 2015 tạo việc làm cho 8.780 người, đến 2020 tạo việc làm cho 15.640 người và định hướng đến 2030 tạo việc làm cho 16.600 người.
Quy hoạch phân bố diện tích nuôi TCT trên địa bàn các huyện như sau: Bình Đại năm 2015 là 1.220ha, năm 2020 là 1.790ha, năm 2030 là 1.790ha; Ba Tri năm 2015 là 1.470ha, năm 2020 là 2.220ha, năm 2030 là 2.220ha; Thạnh Phú năm 2015 là 1.500 ha, năm 2020 là 2.900 ha, năm 2030 là 3.260ha; Giồng Trôm năm 2015 là 110ha, năm 2020 là 550ha, năm 2030 là 550 ha; Mỏ Cày Nam năm 2015 là 90ha, năm 2020 là 360ha, năm 2030 là 480ha.
Quy hoạch cũng đề xuất 7 dự án hạ tầng về thủy lợi, giao thông; 8 dự án đầu tư hệ thống lưới điện; 6 dự án nghiên cứu khoa học phát triển sản xuất; 2 dự án xây dựng nhà máy chế biến thủy sản. Tổng vốn đầu tư phát triển nuôi TCT đến 2020 là 1.359 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư các dự án, đề tài nghiên cứu khoa học phát triển sản xuất đến 2020 là 738 tỷ đồng.
Quy hoạch đề xuất 10 giải pháp thực hiện, bao gồm các giải pháp như về cơ chế, chính sách; bảo vệ tài nguyên, môi trường; khoa học công nghệ; phát triển nguồn nhân lực; vốn đầu tư; chế biến tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường và xúc tiến thương mại; tổ chức sản xuất; hậu cần dịch vụ cho hoạt động nuôi và sản xuất giống; cơ sở hạ tầng; tổ chức thực hiện và quản lý quy hoạch.
Có thể bạn quan tâm

Trong sản xuất nông nghiệp, giống luôn đóng vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến năng suất và chất lượng. Còn trong nuôi thuỷ sản, con giống lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn, góp phần không nhỏ vào sự thành công hay thất bại của vụ nuôi.

Bước vào vụ cá nam năm nay (từ tháng 4 - 10/2014), cùng với chính sách hỗ trợ của Nhà nước, ngư dân trên địa bàn tỉnh đã chú trọng đầu tư phương tiện vươn khơi đánh bắt, hứa hẹn đem lại vụ mùa bội thu.

Được biết, trong khoảng 3 tháng trước đây, mực khô bị giảm giá đột biến khoảng 150 ngàn đồng/kg, gây rất nhiều khó khăn cho bà con ngư dân khi đánh bắt vì thu không bù nổi chi phí (doanh thu bán mực chiếm 70% tổng doanh số đánh bắt của chuyến biển), nhiều tàu ghe lỗ tổn do giá mực giảm phải nằm bờ.

Những năm qua, việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp trong tỉnh Bắc Ninh có bước phát triển nhanh, đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Trong lĩnh vực chăn nuôi, nhiều cơ sở sản xuất giống, chế biến, các trang trại từng bước đưa công nghệ cao vào sản xuất, góp phần giải phóng sức lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Từ đầu tháng 3 đến nay, khi bắt đầu thu hoạch vụ dưa đông xuân 2013 - 2014 và vụ dưa xuân hè 2014, tại các tỉnh miền Trung, rơm được bán với giá rất cao, gấp 2 - 3 lần so với mọi năm.