Bất Cập Trong Miễn Giảm Thủy Lợi Phí

Bất cập
Theo đánh giá của Tổng cục Thủy lợi, hơn 4 năm thực hiện việc miễn giảm thủy lợi phí theo NĐ 115, chính sách này không chỉ góp phần giảm chi phí đóng góp của người nông dân từ 5 - 10% mà còn đem lại nhiều hiệu quả tích cực khác. Cụ thể, diện tích tưới tiêu chủ động của các địa phương tăng lên bình quân 4 - 10%. Chính sách này còn giúp cho các HTX Nông nghiệp hoạt động mạnh mẽ trở lại, tạo nguồn kinh phí cho các địa phương, đơn vị khai thác công trình thủy lợi (KTCTTL) chủ động trong sản xuất…
Tuy nhiên bên cạnh đó, chính sách này vẫn còn bộc lộ không ít bất cập như nhiều công trình thủy lợi xuống cấp nhanh do không được bảo dưỡng kịp thời, đối tượng thụ hưởng chính sách chưa được đề cập đầy đủ dẫn đến khó khăn cho việc thanh toán".
Cùng với đó, mức thu thuỷ lợi phí hiện còn nhiều điểm bất hợp lý. Cụ thể, việc lấy mức quy định của Nghị định 143/2003/NĐ-CP của Chính phủ làm cơ sở tính toán, trên cơ sở đó nhân với hệ số trượt giá (2,31 lần) để xác định mức thu quy định của NĐ 115 là không phù hợp thực tế. Với mức này, các vùng miền núi sẽ gặp nhiều khó khăn do việc quản lý công trình thủy lợi trên địa bàn rộng, chi phí quản lý, vận hành công trình cao nhưng mức thu quy định thấp, do vậy mức cấp bù rất thấp.
Miễn trực tiếp cho người dân
Trước những bất cập trên, nhiều địa phương cho rằng cần sớm sửa đổi NĐ 115 cho phù hợp với thực tế như điều chỉnh mức thu thủy lợi phí theo trượt giá của từng giai đoạn hay mức thu phải đáp ứng chi phí tối thiểu của doanh nghiệp để đảm bảo duy tu, bảo dưỡng công trình… Đặc biệt, cần làm rõ hơn đối tượng được hưởng miễn thủy lợi phí. Ông Nguyễn Văn Vũ, Phó Trưởng phòng Kinh tế huyện Đan Phượng (Hà Nội) cho biết, NĐ 115 chỉ miễn thủy lợi phí cho những công trình có vốn đầy tư của Nhà nước hay tổ chức kinh doanh đứng ra đầu tư. Tuy nhiên, huyện Đan Phượng có khoảng 300ha thuộc vùng bãi sông Hồng, không có các công trình thủy lợi, người dân phải tự đầu tư hệ thống tưới tiêu nhưng lại không được hỗ trợ. Do đó cần được bổ sung đối tượng này vào diện miễn thủy lợi phí.
Theo ông Nguyễn Hồng Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý công trình Thủy lợi (Tổng cục Thủy lợi), hiện nay việc miễn thủy lợi phí thông qua cấp ngân sách trực tiếp cho các tổ chức quản lý KTCTTL không hiệu quả, không gắn được trách nhiệm của người dân trong việc bảo vệ công trình và giám sát việc sử dụng kinh phí Nhà nước. Do đó, nên miễn trực tiếp cho người dân, tức là Nhà nước cấp kinh phí cho người dân căn cứ vào nghiệm thu hợp đồng, hóa đơn giữa người dân với đơn vị cấp nước.
Đồng tình quan điểm trên, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Đào Xuân Học nhấn mạnh, công trình thủy lợi có đặc thù là trải trên diện rộng, nếu không có sự tham gia của người dân thì rất khó có thể quản lý tốt. Quan điểm của Bộ NN&PTNT là phân cấp mạnh cho các địa phương và người dân để gắn quyền lợi và trách nhiệm trong chính sách miễn thủy lợi phí. Trong đó, định hướng là thành lập các Hội dùng nước để người dân tham gia giám sát, quản lý những trạm bơm, hồ chứa nhỏ, không đòi hỏi kỹ thuật phức tạp. Trong thời gian tới, Bộ NN&PTNT sẽ ban hành một số Thông tư hướng dẫn và đề nghị Chính phủ chỉnh sửa lại NĐ115.
Có thể bạn quan tâm

Nằm ngay dưới chân dãy núi Tam Đảo, xóm Thai Thèn Bạ, xã Phúc Thuận (Phổ Yên) có đến 98% dân số là người dân tộc Sán Dìu. Trong vài năm trở lại đây nhờ cớ sự đầu tư của Nhà nước cùng với sự nỗ lực của người dân, xóm đã có sự bứt phá về mọi mặt.

Đến nay, sản lượng nuôi trồng thủy sản của tỉnh đã đạt gần 7.800 tấn, vượt 3,7% so với kế hoạch, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt trên 7.600 tấn, còn lại là thủy sản khai thác. Cũng trong năm nay, toàn tỉnh đã sản xuất được 500 triệu con cá giống, cá bột; triển khai nhiều mô hình khuyến ngư hiệu quả như nuôi cá Diêu Hồng trong lồng, nuôi cá thâm canh trong ao sử dụng chế phẩm sinh học; nuôi cá hồ chứa nhỏ…

Đến nay, các đơn vị đã xây dựng được 22 nguồn giống cây lâm nghiệp, trong đó: 7 lâm phần tuyển chọn sến mật, vẹt, trang, đước, thông Cariber... với diện tích 463,7 ha; 9 rừng giống chuyển hóa thông nhựa, lát hoa, lim xanh, mỡ, trám trắng, keo tai tượng, diện tích 87,27 ha; 1 rừng giống keo tai tượng, diện tích 10 ha; 2 vườn cung cấp hom phi lao dòng TT2.6, TT2.7, diện tích 0,9 ha... Hàng năm, thu hái hơn 4.000 kg hạt giống đưa vào sản xuất gieo ươm.

Theo anh Trần Văn Phi, có được thành công này là nhờ cách nghĩ, cách làm và kinh nghiệm đúc rút được sau nhiều năm anh làm thuê cho các công ty nước ngoài ở Lâm Đồng. Anh Phi kể năm 1993, anh xin làm công nhân cho một công ty Đài Loan chuyên trồng, sản xuất chè chất lượng cao.

Từ đầu năm đến nay nhiều tổ chức cá nhân tại Hà Tĩnh đã mạnh dạn, đầu tư chuyển đổi từ nuôi tôm quảng canh, cải tiến sang nuôi tôm thâm canh, công nghệ cao trên cát và trong ao đất lót bạt, vỗ bờ nhằm phát huy hiệu quả sử dụng diện tích mặt nước và tăng năng suất, sản lượng, hiệu quả kinh tế cao.