Bàn giải pháp phát triển cá nước lạnh bền vững

Thứ trưởng Bộ NN và PTNT, Tổng cục Trưởng Tổng cục Thủy sản Vũ Văn Tám và ông Phan Văn Đa, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng đồng chủ trì Hội nghị.
Hiện nay nước ta có hai đối tượng cá nước lạnh được nuôi phổ biến là cá tầm và cá hồi, di nhập vào nuôi ở nước ta từ năm 2004.
Đến nay, cá nước lạnh đã trở thành đối tượng nuôi khá phổ biến ở nhiều vùng, nhiều địa phương, bước đầu góp phần phát triển kinh tế, tạo ra các mô hình sản xuất mới, đa dạng hoá đối tượng nuôi, tạo công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ cư dân miền núi.
Theo thống kê, có khoảng hơn 100 cơ sở tại 22 tỉnh thành phố nuôi cá nước lạnh, sản lượng cá nuôi cũng tăng nhanh trong thời gian qua.
Năm 2007 tổng sản lượng cá nước lạnh chỉ đạt 95 tấn (trong đó cá tầm 75 tấn, cá hồi 20 tấn), đến năm 2013 sản lượng nuôi cá nước lạnh ước đạt khoảng 1.585 tấn (trong đó cá tầm 1.123 tấn, cá hồi 462 tấn).
Tăng trưởng sản xuất trong giai đoạn 2007 - 2013 trung bình 68,75%/năm.
Về sản xuất giống, thời gian gần đây nhu cầu về con giống là rất lớn, một năm cần số lượng giống khoảng hơn 3,0 triệu con, đến năm 2020 theo quy hoạch cần khoảng 6,0 triệu con giống (trong đó cá tầm là 4,0 triệu con và cá hồi 2,0 triệu con).
Hiện tại 2 tỉnh Lâm Đồng và Lào Cai có số lượng cơ sở sản xuất giống cá nước lạnh lớn nhất.
Về chế biến và tiêu thụ, sản phẩm cá nước lạnh của Việt Nam hiện chủ yếu tiêu thụ là cá tươi sống hoặc cấp đông mà chưa qua các chế biến.
Được xem là một mặt hàng tương đối mới nên những năm gần đây nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm từ cá hồi, cá tầm nuôi trong nước xu hướng gia tăng.
Năm 2012 nhu cầu tiêu thụ cả nước lạnh của cả nước là 7.300 tấn, trong đó nhập khẩu 6.000 tấn (chiếm 82,19%) và sản xuất trong nước 1.300 tấn (chiếm 17,81%).
Dự báo đến đến năm 2020 nhu cần thị trường sẽ tăng lên mức trên 10.500 tấn.
Giá thương phẩm của mặt hàng tươi sống cá nước lạnh bán tại cơ sở sản xuất khoảng 175.000 đến 250.000 đ/kg tùy thời điểm và khu vực, giá bán tại các nhà hàng khách sạn khoảng 300.000 đến 400.000 đ/kg.
Tuy nhiên, việc phát triển sản xuất cá nước lạnh nước ta đang gặp phải một số khó khăn như:
Việc xây dựng và ban hành quy hoạch phát triển cá nước lạnh toàn quốc, các TCVN, QCVN còn chậm; Chậm bổ sung các đối tượng cá tầm vào danh mục giống được phép sản xuất, kinh doanh;
Chưa có hướng dẫn công tác phòng chống dịch bệnh trên nước lạnh.
Về kiểm dịch giống thuỷ sản, cá nước lạnh được được quy định tại nhiều Thông tư gây khó khăn cho các cơ sở cho tác kiểm dịch giống.
Bên cạnh đó, nguồn cung cấp thức ăn còn hạn chế, thiếu sự cạnh tranh.
Trong nước mới chỉ có số ít doanh nghiệp và cơ sở nghiên cứu sản xuất được cá giống tại chỗ làm cho giá thành sản phẩm tăng cao, khó cạnh tranh với cá nước lạnh nhập khẩu.
Ngoài ra, chi phí đầu tư cho các cơ sở nuôi cá nước lạnh là rất lớn, giá bán sản phẩm chưa ổn định, khó cạnh tranh với cá nước lạnh nhập lậu...
Để phát triển nuôi cá nước lạnh bền vững, thời gian tới Tổng cục Thủy sản sẽ hướng dẫn các tỉnh, thành phố lập quy hoạch chi tiết vùng nuôi cá nước lạnh cho địa phương;
Tổ chức quản lý phát triển cá nước lạnh trên phạm vi cả nước, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các cơ sở có nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm liên quan đến phát triển cá nước lạnh như con giống, thức ăn; ban hành TCVN về giống cá nước lạnh trước tháng 30/12/2015; thúc đẩy thành lập Hội hội nuôi cá nước lạnh Việt Nam...
Có thể bạn quan tâm

Người dân xã Xuân Cẩm, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa thường nuôi gà với quy mô nhỏ lẻ, phân tán theo hình thức thả tự do, ban ngày gà tự đi kiếm ăn, đêm đến thì gà ngủ trên cây, gà chậm lớn, hay mắc bệnh, tỷ lệ chết cao, dẫn đến hiệu quả thấp.

Đây là ổ dịch cúm gia cầm H5N6 thứ 4 xảy ra trên đàn vịt tại tỉnh Quảng Ngãi. Hiện Ban chỉ đạo phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm tỉnh Quảng Ngãi tiếp tục giám sát chặt chẽ ổ dịch, kịp thời phát hiện và xử lý nếu phát hiện thêm ổ dịch mới. Đồng thời triển khai các biện pháp để phòng chống dịch cúm A (H5N6) lây sang người.

Đàn bò của tỉnh Yên Bái hiện có trên 18.000 con. Số lượng đầu đàn đang giảm dần qua từng năm. Không chỉ suy giảm về mặt số lượng mà chất lượng cũng là vấn đề cần được quan tâm. Để khắc phục những vấn đề này, việc bổ sung những giống mới vào là rất cần thiết. Vì vậy, thời gian qua, Trung tâm Giống vật nuôi tỉnh đã tiến hành cải tạo đàn bò bằng giống bò Brahman.

Các hộ tham gia mô hình được hỗ trợ 100% con giống, 85% chi phí thức ăn, 30% chi phí làm đệm lót sinh học. Qua hơn 2 tháng triển khai mô hình, hiện 53 con heo nuôi tại hộ ông Ngô Kim Sơn trên diện tích chuồng 70m2 đang phát triển tốt. Còn 22 con heo nuôi theo mô hình tại hộ bà Đoàn Thị Kim Khuê đã xuất chuồng với tổng trọng lượng hơn 1,8 tấn heo hơi (bình quân 84kg/con). Với giá bán 48.000 đồng/kg, sau khi trừ các khoản chi phí còn lãi gần 15 triệu đồng.

Đó là khẳng định của ông Nguyễn Thành Lâm - Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Ba Tri (Bến Tre) trong việc thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp trên lĩnh vực chăn nuôi bò của huyện, giai đoạn 2013 - 2015 và định hướng đến năm 2020.