Xuống Giống Ồ Ạt, Nhiễm Rầy Hàng Loạt

Theo Chi cục BVTV Đồng Tháp, trong vụ hè thu 2012, tỉnh này dự kiến xuống giống khoảng 190 ngàn ha. Căn cứ vào tình hình di trú của rầy nâu, Đồng Tháp sẽ xuống giống tập trung lúa hè thu vào 2 đợt. Đợt 1 từ 20/3 đến 31/3, đợt 2 từ 15/4 đến 30/4. Ngành nông nghiệp Đồng Tháp khuyến cáo nông dân không nên xuống giống lúa hè thu sớm trước ngày 20/3 vì đó là thời điểm lúa đông xuân đang thu hoạch rộ nên rầy di trú với mật số cao. Công tác bẫy rầy vào đèn ở Đồng Tháp cho thấy rõ điều này, từ đêm 6–11/3/2012 rầy di trú với mật số cao tại các bẫy đèn như: Bình Thạnh Trung (huyện Lấp Vò) với 187.400 con/bẫy, Long Hậu (Lai Vung) với 204.800 con/bẫy, Long Thuận (Hồng Ngự) với 112.600 con/bẫy.
Thế nhưng ở Đồng Tháp, ngay từ giữa tháng 1, sau khi thu hoạch xong lúa đông xuân sớm, nhiều nông dân ở các huyện Tháp Mười, Cao Lãnh đã xuống giống ngay lúa xuân hè. Và đến giữa tháng 3, trên địa bàn tỉnh này đã có 27.503 ha lúa xuân hè được xuống giống. Trong khi đó, diện tích lúa đông xuân chưa thu hoạch ở Đồng Tháp còn khá lớn. Cụ thể, tới ngày 14/3, nông dân Đồng Tháp mới thu hoạch 91.247 ha, đạt 43,8% diện tích xuống giống, diện tích lúa còn chưa thu hoạch là 117.243 ha, hầu hết đang trong giai đoạn trỗ chín. Điều đáng nói trên diện tích lúa đông xuân còn lại này, rầy nâu đang gây hại 1.205 ha, trong đó nhiễm nặng 17 ha với mật số phổ biến 3.000 - 5.000 con/m2, nhiễm trung bình 220 ha với mật số 1.500 - 3.000 con/m2, còn lại nhiễm nhẹ.
Chính việc trên lúa đông xuân còn nhiều diện tích nhiễm rầy nâu, cộng với rầy di trú mật số cao do nông dân thu hoạch rộ nên diện tích lúa hè thu sớm ở Đồng Tháp bị nhiễm rầy nâu đang tăng mạnh. Đến giữa tháng 3, rầy nâu đã gây hại 4.458 ha lúa xuân hè giai đoạn mạ - đẻ nhánh, trong đó có 121 ha nhiễm nặng với mật số 3.000 - 4.000 con/m2, nhiễm trung bình 1.690 ha (mật số 1.500 - 2.000 con/m2), còn lại nhiễm nhẹ. Như vậy diện tích lúa xuân hè bị rầy nâu gây hại đã tăng 4.378 ha so với tuần trước đó, chủ yếu là rầy tuổi trưởng thành.
Không chỉ ở Đồng Tháp, lúa xuân hè cũng đang được nông dân xuống giống ồ ạt ở nhiều địa phương khác. Theo PGS.TS Phạm Văn Dư, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, đến giữa tháng 3 này, nông dân nhiều tỉnh, TP ở ĐBSCL đã xuống giống tới 136 ngàn ha lúa xuân hè. Dẫn đầu là tỉnh Sóc Trăng với 52 ngàn ha. Tiếp đó là Đồng Tháp với gần 30 ngàn ha, Vĩnh Long 25 ngàn ha, Tiền Giang 10 ngàn ha…
Nếu gom sản xuất lúa xuân hè vào vụ hè thu chính vụ, cây lúa sẽ phát triển tốt hơn nhờ có đủ nước, ánh sáng, tránh được sự lây lan rầy nâu từ lúa vụ đông xuân và nhất là đồng ruộng sẽ có thời gian cày ải, tăng cường dưỡng chất sau một vụ thu hoạch lúa.
Điều đáng nói là diện tích lúa đông xuân chưa thu hoạch ở ĐBSCL vẫn còn rất lớn. Đến giữa tháng 3, mới có khoảng 600 ngàn ha được thu hoạch, như vậy lúa còn đứng trên đồng tới gần 1 triệu ha. Do đó, lúa xuân hè rất dễ bị nhiễm rầy từ những ruộng lúa đang thu hoạch bay sang. Theo ông Nguyễn Hữu Huân, Phó Cục trưởng Cục BVTV, hiện nay, tỷ lệ rầy nâu mang mầm bệnh ở ĐBSCL còn khá cao, do đó, việc xuống giống lúa xuân hè trong khi lúa đông xuân còn đang thu hoạch rộ là rất nguy hiểm.
Đến nay, đã có 43.435 ha lúa xuân hè 2012 ở ĐBSCL bị nhiễm rầy nâu, chủ yếu tại các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang… Như vậy có tới 32% diện tích lúa xuân hè đã xuống giống bị nhiễm rầy nâu, một tỷ lệ khá cao. Mật số rầy nâu trên lúa xuân hè phổ biến ở mức 1.000-2.000 con/m2. Trong đó, có 831 ha bị nhiễm nặng với mật số 3.000-4.000 con/m2. Ông Nguyễn Hữu Huân cho biết, tại Hội nghị sơ kết vụ đông xuân, triển khai vụ hè thu tổ chức cuối tuần này tại Đồng Tháp, Cục BVTV sẽ cảnh báo mạnh mẽ tình trạng xuống giống ồ ạt lúa xuân hè và nguy cơ lây nhiễm rầy nâu trên lúa vụ này tại ĐBSCL.
Tình trạng trên đang đặt ra vấn đề phải sớm giảm dần và đi đến việc có thể chấm dứt hẳn sản xuất lúa xuân hè ở ĐBSCL. Ông Phạm Văn Dư cho biết ngoài một số địa phương do chưa có đê bao, dễ bị ngập nước trong vụ hè thu, nên đành phải xuống giống sớm trong vụ xuân hè (như ở Cai Lậy, Tiền Giang, với diện tích khoảng 40 ngàn ha), còn ở các nơi khác, nông dân vẫn đang làm vụ xuân hè chủ yếu là theo quán tính: cứ gặt lúa đông xuân xong là gieo sạ lúa xuân hè ngay. Do đó, ở những địa phương này, chính quyền và ngành nông nghiệp cần phải tích cực khuyến cáo nông dân không nên xuống giống quá sớm khi đang thu hoạch vụ đông xuân. Các địa phương nên đưa dần diện tích vụ xuân hè vào vụ hè thu chính vụ.
Có thể bạn quan tâm

Nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân, các chủ cơ sở nuôi trồng thủy sản về nguy cơ, tác hại của bệnh dịch trong nuôi trồng thủy sản, góp phần phát triển nghề nuôi trồng thủy sản an toàn và bền vững, nhiều địa phương đã lên kế hoạch và chuẩn bị kinh phí cho công tác phòng, chống dịch bệnh cho động vật thủy sản nuôi năm 2015.

“Với kim ngạch xuất khẩu năm 2014 đạt 7,92 tỷ USD, vượt kế hoạch hơn 1 tỷ USD, đây là một năm rất thành công, nhưng cũng là năm đầy vất vả của cả nông dân và doanh nghiệp (DN)”, đó là nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) tại buổi gặp gỡ báo chí TPHCM ngày cuối năm 2014.

Sở KH-CN vừa nghiệm thu 2 dự án khoa học gồm: Dự án xây dựng mô hình sản xuất nhân tạo nghêu giống ở tỉnh Bạc Liêu và Dự án sản xuất giống và nuôi cá sặc rằn trong ao đất và trong ruộng lúa kết hợp. Thành công mang lại từ các dự án trên mở ra cho nông dân cơ hội sản xuất nghêu giống và cá sặc rằn.

Theo nhiều người dân thôn Vinh Bình, ban đầu, nông dân chỉ nuôi cá rô đầu vuông với số lượng ít để khảo nghiệm. Do thấy cá thích nghi tốt, lớn nhanh nên một số hộ đã mạnh dạn mua thêm con giống về nuôi. Ông Hồ Nhâm Bảo - hộ nuôi cá trong thôn chia sẻ: “Trước đây, tôi đã có thời gian nuôi cá trê lai, nhưng lợi nhuận rất ít do địa hình thấp, có năm bị mất trắng do lũ lụt. Cuối năm 2013, thấy cá rô đầu vuông của một số hộ trong thôn thả nuôi lớn rất nhanh nên tôi gửi mua một ít giống về thả thử.

Năm 2015, Tiền Giang có kế hoạch tiếp tục khai thác tốt tiềm năng nuôi thủy sản trên cả ba vùng sinh thái: ngọt, lợ, mặn gắn với chiến lược tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nhằm giúp nông dân tăng thêm nguồn thu nhập, ổn định cuộc sống và tạo thêm nguồn hàng hóa chất lượng tốt, đáp ứng tiêu dùng và xuất khẩu.