Xuất khẩu tôm sang Nhật Bản tiếp tục giảm sâu

Trong 4 tháng đầu năm 2015, xuất khẩu (XK) tôm Việt Nam sang Nhật Bản tiếp tục xu hướng giảm của năm 2014 với mức giảm tới 24,6% với giá trị đạt 146,8 triệu USD, mặc dù Nhật Bản đã giành lại được vị trí thứ 2 sau Mỹ về tiêu thụ tôm Việt Nam.
Nguyên nhân khiến xuất khẩu tôm Việt Nam vào Nhật Bản giảm là do kinh tế Nhật Bản vẫn chưa cải thiện nhiều, cộng với đồng yên mất giá so với USD. Bên cạnh đó, giá tôm thế giới tăng khiến sức mua của người tiêu dùng Nhật Bản giảm do thị hiếu tiêu dùng của người Nhật Bản cũng dễ thay đổi theo điều kiện kinh tế và thu nhập. Họ có xu hướng lựa chọn các sản phẩm có giá hợp lý.
NK tôm vào Nhật Bản bước vào năm 2015 tiếp tục giảm mạnh so với cuối năm 2014. Tổng NK tôm vào Nhật Bản (gồm tôm nguyên liệu và tôm chế biến) trong tháng 1/2015 giảm 30% so với tháng 12/2014 và giảm 29% so với cùng kỳ năm 2014. Tháng 1/2015, giá tôm trên thị trường Nhật Bản tiếp tục xu hướng giảm so với các tháng cuối năm 2014, tuy nhiên từ tháng 2 đến tháng 4/2015, giá tăng đều đặn từ 11 USD/kg lên 12 USD/kg.
NK tôm nước ấm và tôm nước lạnh vào thị trường này giảm xuống mức thấp 4 năm. Trong tháng 1/2015, NK tôm vào Nhật Bản giảm trong khi nước này cần bổ sung vào nguồn dự trữ tôm trong nước để phục vụ mùa nhu cầu tiêu thụ tăng cao vào tháng 4 và 5. NK từ các nguồn cung đều giảm duy nhất NK từ Indonesia (chủ yếu là các sản phẩm tôm hấp chín đông lạnh) tăng trong giai đoạn này.
Bốn tháng đầu năm 2015, NK tôm vào Nhật Bản đạt 627 triệu USD, giảm 22% so với cùng kỳ năm 2014 (806 triệu USD). Nhờ sản phẩm tôm sú chất lượng cao nên Việt Nam có được lợi thế hơn các nước cạnh tranh khác và dẫn đầu về cung cấp tôm cho thị trường này, chiếm 25% tổng NK tôm của Nhật Bản. Tiếp theo là Thái Lan và Indonesia lần lượt chiếm 18 và 19%. Trên thị trường Nhật Bản, Việt Nam phải cạnh tranh với Ấn Độ và Thái Lan do giá XK tôm của Việt Nam cao hơn.
Tôm nguyên liệu đông lạnh và tôm chế biến là 2 mặt hàng tôm NK chính vào Nhật Bản. Đối với tôm chế biến, Thái Lan đang là nhà cung cấp lớn nhất cho thị trường này. Việt Nam đang phải cạnh tranh với Thái Lan vì có giá XK cao hơn. Đối với tôm nguyên liệu đông lạnh, Indonesia đang là nguồn cung lớn nhất, Việt Nam đứng thứ 2.
Có thể bạn quan tâm

Trong thời gian gần đây, bệnh trên cây mì liên tục xảy ra, nên hầu hết người trồng khoai mì trên địa bàn xã chọn phương án trồng cây tràm ghép cao sản để cải tạo đất, tăng năng suất và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, thương lái mua tại đám từ 60 triệu đến 65 triệu đồng/ha. Trong khi đó, nếu chỉ trồng khoai mì, 1ha đất chỉ đạt hơn 20 triệu đồng.

Gia đình bà Nguyễn Thị Trang, thôn Vạn Ty, xã Thái Bảo, huyện Gia Bình (Bắc Ninh) trồng 30 nghìn gốc măng tây từ tháng 10 - 2013 với diện tích hai ha, với vốn đầu tư khoảng 300 triệu đồng/ha, đến nay đang có nguồn thu ổn định 2,5 triệu đồng/ngày.

Xuất khẩu rau quả 9 tháng qua đã có bước tăng trưởng mạnh về giá trị so với cùng kỳ năm 2013, vượt ngưỡng 1 tỷ USD. Trung Quốc vẫn là thị trường chính nhưng đang có nhiều tiềm ẩn bất trắc. Vì vậy, việc khai phá các thị trường khó tính đang được ngành nông nghiệp và doanh nghiệp (DN) Việt Nam hết sức quan tâm.

Ngày 12/8/2014, Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Trà Vinh trao giấy chứng nhận VietGAP sản phẩm măng cụt cho Hợp tác xã Tân Thành, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè và sản phẩm quýt đường cho Hợp tác xã quýt đường Thuận Phú, xã Bình Phú, huyện Càng Long. Đến nay, Trà Vinh đã có 3 sản phẩm trái cây sản xuất đạt chuẩn VietGAP là măng cụt, quýt đường và thanh long ruột đỏ của Hợp tác xã thanh long ruột đỏ Đức Mỹ, huyện Càng Long.

Quản lý dịch chổi rồng ở ĐBSCL thời gian qua chưa thật sự hiệu quả. Đó là nhận định chung được đưa ra tại hội nghị quản lý bệnh chổi rồng hại nhãn và chôm chôm do Bộ Nông nghiệp và PTNT tổ chức vừa qua tại Vĩnh Long.