Xuất Khẩu Việt Nam Dựa Quá Nhiều Vào Sản Phẩm Thô

Ngày 30-7, Cục Kinh tế Liên bang Thụy Sĩ và Cục Xúc tiến thương mại VN đã công bố nghiên cứu dự án Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa về tiềm năng xuất khẩu của VN. Theo đó, cảnh báo cơ cấu xuất khẩu của VN đang dựa quá nhiều vào sản phẩm thô, thâm dụng tài nguyên...
Theo Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải, nghiên cứu giúp xác định các ngành hàng, dịch vụ có tiềm năng xuất khẩu trong tương lai, từ đó giúp cơ quan quản lý, cộng đồng doanh nghiệp định hướng cho hoạt động trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của nhóm chuyên gia dự án do chính phủ Thụy Sĩ và Thụy Điển tài trợ cho thấy các mặt hàng tiềm năng xuất khẩu cao của VN có sắn, cà phê, mây tre lá, cao su, gốm sứ, cá tra, du lịch... Nhóm có tiềm năng xuất khẩu thấp gồm gạo, mía đường...
Cụ thể, theo nhóm nghiên cứu, sắn là cây trồng dễ thích nghi, dễ trồng ở VN. Thị phần sắn VN trên thị trường thế giới đạt 27,3%. Thị trường sắn xuất khẩu ngày càng được mở rộng từ con số 59 nước và vũng lãnh thổ năm 2009 đã lên đến khoảng gần 100 nước và vũng lãnh thổ vào năm 2012 cần nhập.
Về dịch vụ du lịch, báo cáo khuyến nghị nền ẩm thực phong phú và thu hút của VN, đặc biệt miền Bắc cần xây dựng được thương hiệu cho các món ăn đặc sắc của vùng để hấp dẫn được khách quốc tế. Khẩu vị các món ăn còn thuần túy địa phương cần được cải tiến phù hợp với khẩu vịcủa khách quốc tế.
Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu sắn chủ yếu của VN vẫn là Trung Quốc với 85% tổng giá trị xuất khẩu ngành sắn Việt Nam. Để đẩy mạnh xuất khẩu sắn trong thời gian tới, nhóm nghiên cứu cho rằng VN cần ưu tiên đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để giảm dần sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.
Gốm sứ cũng là một trong những mặt hàng có thế mạnh của VN nhờ tận dụng lợi thế cạnh tranh về nguyên liệu, tay nghề và truyền thống sản xuất. VN cũng nên tập trung phát triển ngành này, và cần hỗ trợ lập trung tâm để đảm bảo chất lượng nguyên liệu đồng đều…
Báo cáo cũng đưa ra hai cảnh báo. Thứ nhất, dù xuất khẩu tăng nhanh nhưng tỷ trọng xuất khẩu của các thành phần kinh tế trong nước ngày càng giảm. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI chủ yếu làm gia công xuất khẩu với phần lớn nguyên vật liệu nhập khẩu. Họ có rất ít kết nối với các doanh nghiệp trong nước.
Nói cách khác, các doanh nghiệp FDI đầu tư mạnh vào VN chỉ để giải bài toán về lao động, tận dụng lao động giá rẻ của VN. Đóng góp của FDI trong việc cải tiến công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất, vì vậy, vẫn không đáng kể. VN không thể phát triển bền vững nếu chỉ dựa vào khối FDI.
Thứ hai, cơ cấu xuất khẩu của VN dựa quá nhiều vào các sản phẩm thô, thâm dụng tài nguyên, thâm dụng lao động, có giá trị gia tăng thấp.
“Kinh nghiệm của các nước chỉ ra rằng nếu cơ cấu xuất khẩu chỉ tập trung vào một số ngành hàng, đặc biệt là những hàng hóa thô, thì khó có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững trên diện rộng”, báo cáo viết.
Có thể bạn quan tâm

Những ngày này ở làng Xuân Trì (xã Hoàng Hanh, huyện Ninh Giang, Hải Dương), những thửa ruộng ớt cuối cùng đang được bà con nhổ hết để chuyển sang cấy lúa.

Đến thăm mô hình kinh tế VACR của chị Ra Phát Thị Gấm, người Cơ Tu ở thôn Brùa, xã Jơ Ngây (Đông Giang - Quảng Nam), chúng tôi thật sự thán phục trước sự đảm đang của chị

Năm 2011, ngành chăn nuôi đặt mục tiêu giá trị sản xuất tăng 7,5-8% so với năm 2010, chiếm tỷ trọng 30-32% trong nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện giá thức ăn chăn nuôi (TĂCN) tăng cao, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp, nguy cơ người chăn nuôi bỏ chuồng đang trở thành thách thức lớn đối với sự phát triển của ngành

Tại Bình Định, không một hoạt động nào liên quan đến sản xuất nông nghiệp mà không có KNVCS. Công việc ngập đầu là thế, nhưng 1 tháng làm việc của họ chỉ bằng nông dân bán 1 buồng chuối.

Huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng có diện tích vườn cây ăn trái gần 14.000 ha, trong đó diện tích cây có múi chiếm khoảng 6.500 ha. Cây có múi được phân bố ở vùng có địa hình trung bình và vùng trũng của huyện. Hai loại cây có múi là bưởi Năm Roi và cam sành.