Vì Sao Vẫn Phụ Thuộc 70% Giống Lúa Lai Nhập Khẩu?

Sau hơn 20 năm tiếp cận với giống lúa lai, tới nay Việt Nam vẫn phải nhập khẩu tới 70% nhu cầu giống lúa lai hàng năm, chủ yếu từ Trung Quốc.
Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NNPTNT), diện tích gieo trồng lúa của cả nước đạt khoảng 7,8 triệu héc ta năm 2013, trong đó diện tích gieo cấy lúa lai chiếm khoảng 10%. Song, lượng giống lúa lai sản xuất trong nước chỉ vào khoảng 30%, còn lại phải nhập khẩu 70%.
Theo ông Phạm Đồng Quảng, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NNPTNT, mặc dù Việt Nam tiếp cận các giống lúa lai từ những năm 1990 và đã cố gắng đầu tư nghiên cứu lúa lai nhưng chúng ta vẫn đi sau Trung Quốc, Ấn Độ và một số quốc gia khác.
Hơn nữa, sản xuất giống lúa lai gặp nhiều khó khăn do phụ thuộc vào thời tiết nên các doanh nghiệp ngại đầu tư. Chính vì thế, bên cạnh nghiên cứu và sản xuất trong nước thì Việt Nam vẫn phải nhập khẩu giống lúa lai để đáp ứng nhu cầu.
Còn ông Trần Đình Long, Chủ tịch Hiệp hội giống cây trồng Việt Nam, cho rằng khả năng phát triển nhanh lúa lai ở Việt Nam trong thời gian tới là không khả thi vì đã hơn 20 năm Việt Nam thử nghiệm và phát triển lúa lai, nhưng đa số các tổ hợp lai có mặt trong sản xuất vẫn là nhập từ Trung Quốc.
Mặc dù diện tích trồng lúa lai đang có xu hướng tăng, nhưng thực tế cho thấy hầu hết các tổ hợp nhập từ Trung Quốc cho năng suất không cao, nhiễm nặng sâu bệnh như bạc lá và rầy nâu, chất lượng thấp.
“Lúa lai có ưu thế chủ yếu là cho năng suất cao, nhưng trong thực tế lúa lai không có khả năng chịu hạn hoặc chịu sâu bệnh hơn lúa thuần, càng trồng lúa lai nhiều càng bị sâu hại lớn, đặc biệt các tổ hợp lúa lai của Trung Quốc. Hơn nữa năng suất lúa lai bình quân trồng ở Việt Nam chỉ cao hơn lúa thuần khoảng 10 - 15%” – ông Long nói.
Theo ông Quảng, Bộ NNPTNT vẫn xác định lúa lai là một sự lựa chọn, và nông dân căn cứ theo yêu cầu sản xuất và hiệu quả sản xuất để tự quyết định trồng giống lúa nào.
Hiện nay lúa lai chủ yếu tập trung ở các vùng miền núi phía Bắc và Bắc Trung bộ, nơi có diện tích ít, để đảm bảo duy trì an ninh lương thực. Ngoài ra, một số tỉnh đồng bằng Bắc bộ như Hà Nam vẫn dành một số diện tích trồng lúa lai vì lúa này phù hợp với vùng đất bị chua và vùng ngập mặn ven biển.
Trong tương lai, xu hướng lúa lai sẽ không chỉ tập trung vào năng suất mà cần phải nghiên cứu lai tạo các giống lúa lai vừa có năng suất cao, chất lượng tốt, vừa có khả năng chống chịu sâu bệnh hoặc thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu.
Bộ NNPTNT đã đưa ra mục tiêu sẽ giảm lượng nhập khẩu giống lúa lai xuống chỉ còn 30% và tăng lượng cung ứng giống lúa lai trong nước lên 70%.
Theo ông Quảng, hiện nay Việt Nam đã tạo ra được gần 20 tổ hợp lúa lai. Năm 2014, cả nước sản xuất được 2.560 héc ta lúa lai F1, tăng 200 héc ta so với 2013, năng suất hạt giống lai đạt 2,5 tấn/héc ta.
“Dự kiến, năm 2015 nước ta sẽ đáp ứng 35% nhu cầu hạt giống lúa lai trong nước và hy vọng sẽ tiếp tục tăng trong các năm tiếp theo” - ông Quảng khẳng định.
Nguồn bài viết: http://www.thesaigontimes.vn/123508/Vi-sao-van-phu-thuoc-70-giong-lua-lai-nhap-khau.html
Có thể bạn quan tâm

“Khi nào nông dân nhận thức được về lợi ích và hiệu quả của mô hình trồng hoa sinh thái trên ruộng lúa, thì chừng đó người nông dân tự động tham gia trồng mà không cần khuyến cáo”. Ông Phạm Văn Triều, Phó Chủ tịch UBND xã Tân Hương (huyện Châu Thành) đã khẳng định một cách chắc chắn như vậy.

Trước đây người ta cứ nghĩ rươi sinh sản vô tính, kỳ thực ra, rươi sinh sản hữu tính, tức phải có con đực và con cái mới hoài thai được ra con non.

Mục tiêu được đưa ra tại Hội nghị chuyên đề về xuất khẩu (XK) do UBND tỉnh tổ chức gần đây, KNXK toàn tỉnh của năm 2014 dự kiến chỉ đạt khoảng 1,3 tỷ USD. Như vậy, đến thời điểm này, kim ngạch xuất khẩu đã vượt chỉ tiêu kế hoạch, trong khi còn đúng 1 tháng nữa mới kết thúc năm 2014. Thủy sản và gạo, 2 mặt hàng chủ lực của tỉnh, vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng, tuy giá trị thực mang về có thể không tăng bằng những năm trước đây.

Miễn thuế tài nguyên khi khai thác hải sản tự nhiên, thuế môn bài, thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với một số loại thu nhập như: thu nhập từ hoạt động khai thác hải sản, thu nhập từ dịch vụ hậu cần phục vụ trực tiếp cho hoạt động khai thác hải sản xa bờ; thu nhập từ đóng mới, nâng cấp tàu cá có tổng công suất máy chính từ 400CV trở lên để phục vụ hoạt động khai thác hải sản.

Kỹ thuật chế biến tôm Paramay thực hiện theo quy trình nghiêm ngặt, sử dụng các thiết bị công nghệ tiên tiến, đảm bảo yêu cầu xuất khẩu như: nguồn nguyên liệu đạt chuẩn, chế biến an toàn, hợp vệ sinh thực phẩm. Khi đưa vào vận hành, dây chuyền này có thể đảm bảo sản xuất gần 7.000 tấn/năm.