Tuyên Quang phát triển 6 loài cá đặc sản

Những năm gần đây, việc nuôi trồng thủy sản ở Tuyên Quang phát triển rất nhanh.
Tuy nhiên, hình thức tổ chức nuôi trồng vẫn còn đơn lẻ, kỹ thuật chủ yếu dựa vào kinh nghiệm với mục đích bán lẻ.
Do đó, giá trị sản lượng vẫn thấp.
Với mục tiêu nâng cao hiệu quả SX, ngành thủy sản tỉnh này đã "gọi tên" 6 loài cá đặc sản, hứa hẹn mang lại thu nhập tốt cho người nuôi.
Phát triển nhanh
Tuyên Quang có tiềm năng với lợi thế trên 11.000 ha mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản.
Đến năm 2014, tổng diện tích nuôi thả cá trên địa bàn tỉnh đạt 11.228 ha, tăng gấp 6,2 lần so với năm 2005.
Thực tế đó đã hình thành và phát triển nghề nuôi cá lồng trên sông hồ theo hướng SX hàng hóa.
Sản lượng thủy sản của tỉnh trong năm 2014 đạt trên 6.200 tấn (gấp 3 lần so với năm 2005).
Giá trị SX ngành thủy sản giai đoạn 2006 - 2014 tăng bình quân 13%/năm.
Bà Nguyễn Thị Vĩnh An, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Tuyên Quang cho biết, mặc dù phát triển mạnh về diện tích, sản lượng song quá trình trên mang tính tự phát, chưa phát huy hết tiềm năng thế mạnh của địa phương.
Các khâu trong quá trình SX còn khá đơn giản, sử dụng các phương thức chăn nuôi thủ công, thô sơ là chính, chưa áp dụng các biện pháp kỹ thuật, các phương tiện cơ giới hóa trong chăn nuôi.
Từ lợi thế diện tích nuôi trồng, tỉnh đã xây dựng lộ trình phát triển thủy sản với mục tiêu phát triển mạnh nghề nuôi cá lồng, tăng diện tích nuôi và tỷ lệ lồng nuôi cá loài cá bản địa quý hiếm, có giá trị kinh tế cao.
Theo đó, 6 loài cá quý hiếm, đặc sản được chú trọng là cá dầm xanh, anh vũ, lăng chấm, chiên, bỗng và cá tầm.
Chủ động nguồn giống
Để thủy sản phát triển bền vững thì việc chủ động tạo nguồn giống được coi là nhiệm vụ trọng tâm.
Đề tài “Nghiên cứu ứng dụng SX giống cá dầm xanh, anh vũ bằng phương pháp sinh sản nhân tạo” của tỉnh đã được Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I (Viện 1) phối hợp, chuyển giao.
Cá dầm xanh và anh vũ là 2 giống thủy sản quý hiếm, đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Bắt tay vào thực hiện đề tài, cán bộ của Viện I và các cơ quan chuyên môn của tỉnh đã lặn lội trên hầu hết các sông của Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng.
Từ đây, một số cá sinh sống tự nhiên đã được thu gom để chăm sóc, nuôi dưỡng và thuần hóa.
Đến nay, thông qua phối hợp, tiếp nhận công nghệ, Chi cục Thủy sản Tuyên Quang đã cho cá dầm xanh, anh vũ đẻ thành công 8 đợt sinh sản bằng phương pháp nhân tạo, thu được gần 3.000 cá giống.
Bà Trần Thị Phú, xã viên HTX Quý Long, xã Thái Long, TP Tuyên Quang cho biết, thông thường việc nuôi 2 loại cá trên gặp nhiều khó khăn vì không tìm được nguồn giống.
Mặt khác, nếu có thì ít và thường do dân vạn chài cung ứng từ tự nhiên.
Do được đánh bắt thủ công bằng xung điện hoặc bằng lưới nên cá hay bị vẹo sống lưng, không thể phát triển bình thường.
Mặt khác, kỹ thuật nuôi, chăm sóc cũng chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm nên kết quả nuôi trồng không ổn định.
Sự thành công của đề tài nhân giống cá sẽ mở ra mọt cơ hội rất lớn đối với nghề nuôi trồng thủy sản địa phương.
Tương tự, giống cá lăng chấm cũng được Chi cục Thủy sản Tuyên Quang tiếp nhận và chuyển giao thành công công nghệ SX.
Đối với giống cá chiên, đây là loài mà nếu giống được lấy ở sông nào thì sẽ chỉ thích ứng sinh trưởng và phát triển trên dòng sông đó.
Thông qua Trung tâm Tư vấn, thiết kế và chuyển giao công nghệ thủy sản (Viện 1), giống cá chiên đã được đưa về Tuyên Quang nuôi trồng và đạt kết cao với tỷ lệ hao hụt rất thấp.
Giống cá bỗng và cá tầm thì nguồn cung tại thị trường Tuyên Quang đã cơ bản đảm bảo.
Ông Phạm Thanh Bình ở xã Thái Hòa, huyện Hàm Yên cho biết, nghề nuôi cá lồng xuất hiện ở Thái Hòa cách đây khoảng 5 năm.
Từ một vài hộ đầu tiên, giờ Thái Hòa đã có gần 50 hộ nuôi trên 100 lồng cá chiên, bỗng.
Nhờ nuôi cá lồng, nhiều hộ gia đình cho thu nhập cao từ 100 triệu đồng/năm trở lên. Chắc chắn, nghề nuôi cá lồng sẽ ổn định và phát triển mạnh hơn nữa khi giống cá được đảm bảo ổn định về chất lượng và sự thích nghi.
Ông Lê Tiến Thắng, GĐ Sở NN-PTNT Tuyên Quang cho biết, những thành công trong nghiên cứu SX giống cá quý hiếm, đặc sản là cơ sở để thủy sản Tuyên Quang hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Theo đó, đến năm 2020, Tuyên Quang đặt chỉ tiêu có tổng diện tích nuôi trồng thủy sản đạt trên 12.200 ha.
Có trên 1.400 lồng cá với 50% là cá quý hiếm, đặc sản.
Để thực hiện đạt kết quả nói trên, ngành nông nghiệp Tuyên Quang cũng xây dựng hệ thống cơ chế chính sách để hỗ trợ cho người nuôi trồng thủy sản trên địa bàn.
Có thể bạn quan tâm

Giá trị loại cây này cao gấp 2,6 lần cà phê, 6 lần cây chè, 3,8 lần cây điều, gấp 4 lần cây cao su. Thị phần nhập khẩu hồ tiêu Việt Nam vào châu Âu hiện chiếm 34%, châu Á 36%, châu Mỹ 20%, châu Phi 10%. Đó là thông tin tại hội nghị thường niên Hiệp hội Hồ tiêu quốc tế IPC, tổ chức tại TP HCM từ ngày 27 đến 30-10.

So với cùng kỳ năm 2013, số hộ sản xuất nấm rơm, nấm sò trên địa bàn huyện giảm nhiều. Đến nay, toàn huyện mới có hơn 30 hộ đưa nguyên liệu vào sản xuất nấm, trong đó 20 hộ sản xuất nấm sò, 12 hộ sản xuất nấm rơm. Các xã có số hộ sản xuất nấm nhiều gồm: Đoàn Lập, Quang Phục, Bạch Đằng, Kiến Thiết.

Trong khi nông dân ở các tỉnh khác đang vất vả đối mặt với bệnh cây tiêu chết nhanh, chết chậm (CN - CC), thậm chí nhiều hộ gia đình phải bỏ cả vườn tiêu thì tại BR - VT, từ 3 năm trở lại đây người trồng tiêu đã tìm ra nguyên nhân và có giải pháp khắc phục bệnh này khá hiệu quả.

Từ đầu năm đến nay, nông dân trong huyện đã sử dụng 450 ha diện tích rơm để trồng nấm, tập trung tại các xã: Kế Thành, Kế An, Thới An Hội, Đại Hải, Ba Trinh... Tranh thủ thời gian nông nhàn, lấy công làm lời, nhiều hộ nông dân khấm khá nhờ trồng nấm rơm.

Trước thực trạng cà chua khu vực Đà Lạt, Lâm Đồng được mùa rớt giá, có thời điểm giá thu mua cà chua xuống thấp, giá bán ra không đủ để bà con nông dân trang trải chi phí thu hoạch, dẫn đến tình trạng trái cây chín rụng cả gốc, nông dân thua lỗ nặng, hệ thống siêu thị Big C tích cực hỗ trợ tiêu thụ 150 tấn cà chua, đồng thời, tìm giải pháp quảng bá, tăng đầu ra cho bà con nông dân Đà Lạt, Lâm Đồng.