Từ Vườn Truyền Thống Đến VAC Trang Trại

Bắt Nguồn Từ Truyền Thống
Cũng như bao vùng quê khác ở vùng Đồng bằng sông Hồng, nghề làm vườn và kinh tế VAC ở Vĩnh Phúc đã có từ lâu đời. Những tên đất, tên miền gắn với từng sản vật đã trở nên nổi tiếng như dứa Hướng Đạo, vải Can Bi, cá Đầm Rưng... Bắt nhịp với truyền thống đó, ngay từ khi mới thành lập, Hội Làm vườn (HLV) Vĩnh Phúc đã vận động, chỉ đạo nông dân và hội viên thực hiện phong trào cải tạo vườn tạp, phát triển vườn chuyên canh với những giống cây trồng cho hiệu quả, năng suất cao.
Trên thực tế, ngay cả khi chưa thành lập tổ chức Hội cấp tỉnh thì những chi HLV cũng đã làm rất tốt việc tham mưu cho lãnh đạo địa phương thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi, phát triển chăn nuôi gia súc kết hợp làm hầm biôga, trở thành những điểm sáng trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn như HLV xã Tam Đồng (Mê Linh),... Đây chính là cơ sở để tỉnh Hội phát động phong trào cải tạo vườn tạp một cách sâu rộng tới các chi Hội cơ sở. Tốc độ cải tạo vườn tạp, ao hoang, chuồng trại phát triển rất mạnh.
Diện tích vườn cây ăn quả năm 2006 so với năm 1990 tăng gấp 8 lần (8.550ha); diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng 1, 4 lần, giá trị sản xuất tăng 8 lần. Không chỉ khai thác tốt lợi thế của từng địa phương, HLV còn giúp bà con đưa nhiều loại giống cây trồng - vật nuôi có giá trị kinh tế cao vào trồng như: chuối, dứa, nhãn, vải, táo, xoài, hồng, na...; lợn hướng nạc, bò lai Sind, bò sữa, cá chim trắng, tôm càng xanh,..., bước đầu hình thành được một số vùng chuyên canh lớn.
Nếu trước đây, nghề làm vườn ở Vĩnh Phúc chủ yếu là những mô hình nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình thì từ ngày có Hội, nhiều hội viên đã mạnh dạn thầu khoán đất đai, hợp tác sản xuất để hình thành những trang trại quy mô lớn. Toàn tỉnh hiện có gần 700 trang trại, tăng gấp 5 lần so với năm 2000. Tổng diện tích các trang trại sử dụng là 2.839ha (bình quân mỗi trang trại có 4,12ha); giải quyết việc làm cho 2.341 lao động. Giá trị sản xuất bình quân đạt 24 triệu đồng /ha/năm.
Trên 30.000 hộ (trong tổng số 255.000 hộ) có thu nhập từ kinh tế VAC và kinh tế trang trại, qua đó “bức tranh” nông nghiệp - nông thôn Vĩnh Phúc được “dệt” bằng nhiều mô hình sản xuất mới như làm nấm, trồng hoa - cây cảnh, cây ăn quả, chăn nuôi quy mô lớn...
Nhiều triệu phú “chân đất” cũng xuất hiện như anh Trần Văn Ba ở xã Minh Quang (Tam Đảo) nhận trồng, chăm sóc, bảo vệ 600ha đồi - rừng, kết hợp nuôi bò, dê, thu nhập 300 - 400 triệu đồng /năm. Anh Thiện Tâm với mô hình VAC sinh thái, vừa nuôi lợn, kinh doanh dịch vụ... thu nhập 500 - 600 triệu đồmg /năm.
Nắm Vững Và Làm Chủ Cơ Hội
Tuy nhiên, trên thực tế, việc phát triển kinh tế VAC, kinh tế trang trại ở Vĩnh Phúc vẫn gặp một số khó khăn, chủ yếu do việc quy hoạch sản xuất và những cơ chế khuyến khích người làm vườn và kinh tế trang trại thiếu đồng bộ, chưa phù hợp.
Chính vì vậy, ở một số nơi trên địa bàn tỉnh, nghề làm vườn và kinh tế VAC còn mang tính nhỏ lẻ, phân tán, không ít địa phương còn nhiều mảnh vườn có diện tích vài trăm đến hàng nghìn mét vuông bị bỏ hoang. Sản lượng hàng hóa từ nghề vườn chưa nhiều, chưa đặc trưng, chưa có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nhiều mô hình trang trại chưa tương xứng với những tiềm năng vốn có.
Chính vì vậy, Chủ tịch Trung ương HLV Việt Nam Nguyễn Ngọc Trìu đã dặn dò khi đến thăm HLV Vĩnh Phúc: “Dù sinh sau nhưng không vì thế mà chúng ta đánh mất lợi thế của mình, lợi thế đó là cơ hội tiếp cận nhanh hơn, nhiều hơn với kỹ thuật mới, những phương thức kinh doanh, sản xuất tiên tiến mà những người đi trước đang phải tìm cách thích ứng. Muốn hoá giải những khó khăn trên, HLV Vĩnh Phúc cần nắm vững và làm chủ cơ hội”.
Để nghề làm vườn và kinh tế VAC phát triển, theo ông Nguyễn Tuấn Hùng, Chủ tịch HLV Vĩnh Phúc, các ngành chức năng cần liên kết để quy hoạch từng vùng sản xuất cụ thể, nhằm khai thác tốt tiềm năng. Chuyển một phần diện tích gieo trồng cây lương thực hiệu quả thấp sang làm vườn, trồng cây ăn quả, cây dược liệu, cây công nghiệp kết hợp nuôi thả cá hoặc chuyển hẳn sang thâm canh nuôi trồng thủy sản (ở chân ruộng trũng cấy lúa bấp bênh).
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động dồn điền đổi ruộng, tăng cường các hình thức hợp tác, tạo cơ sở cho sản xuất quy mô lớn. Đẩy mạnh liên kết “4 nhà”, tăng cường đầu tư vốn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và vận động nông dân tích cực ứng dụng vào sản xuất.
“Đặc biệt, chúng tôi sẽ đẩy mạnh công tác củng cố xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống tổ chức Hội từ tỉnh đến cơ sở. Tích cực đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Hội để thu hút ngày càng nhiều người làm vườn và kinh tế trang trại vào Hội “-ông Hùng nói.
Có thể bạn quan tâm

Sau hơn 2 tháng triển khai Nghị định 67/2014/NĐ-CP, các cấp ngành và địa phương liên quan trong tỉnh đang tích cực vào cuộc nhằm hiện thực hóa những con tàu vỏ thép cho ngư dân. Tuy nhiên hậu cần nghề cá để đội tàu xa bờ vươn khơi hiệu quả còn tồn tại nhiều hạn chế cần kịp thời tháo gỡ.

Với tình hình giá cả xuống thấp như hiện nay, người trồng cà phê ở huyện Hướng Hóa (Quảng Trị) đang tăng cường sử dụng các phương tiện cơ giới trong một số công đoạn sản xuất và chế biến để tiết giảm tối đa chi phí đầu tư cho vườn cây, nâng cao hiệu quả kinh tế.

Những năm qua, tỉnh Quảng Trị có nhiều giải pháp huy động nguồn lực đầu tư xây dựng nông thôn mới (NTM) nên bộ mặt nông thôn nhiều nơi khởi sắc. Tuy ở một số địa phương còn khó khăn trong thực hiện các tiêu chí về xây dựng NTM, nhưng với sự chung tay, góp sức của chính quyền, người dân tỉnh Quảng Trị đang nỗ lực phấn đấu sớm thực hiện thành công Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM.

Thời gian qua, đã có không ít hộ nông dân trên địa bàn huyện Hoằng Hóa thoát nghèo và có thu nhập khá, thậm chí vươn lên làm giàu nhờ phát triển các mô hình nuôi trồng thủy sản (NTTS), góp phần tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.

Nhưng, giờ đây, những hình ảnh đó đã dần đi vào quá khứ. Bà Hứa Thị Ngãi, xã Nguyệt Ấn (Ngọc Lặc), cho biết, thế hệ các cô gái trẻ hiện nay gần như không biết dệt thổ cẩm, bởi một phần do nhu cầu sử dụng sản phẩm thổ cẩm của bà con không còn nhiều như trước, họ lựa chọn các sản phẩm may sẵn, vừa tiện lợi, đẹp, rẻ mà lại hợp với xu thế.