Từ chuyện con vịt chỉ luộc và quay
Nhưng cái mất không đơn giản chỉ là con số mang tính định lượng mà còn lớn hơn rất nhiều.
Khi bán 1 kg cà phê nhân, chúng ta có thu khoảng 2 USD, tương đương giá trung bình 1 ly cà phê ở các nước nhập khẩu.
Trong khi mỗi kg cà phê nhân có thể pha được 50 ly. Nên về khối lượng, cà phê Việt Nam chiếm 20%, nhưng về giá trị chỉ được khoảng 2% thị phần cà phê thế giới.
Với 95% sản lượng xuất thô, dù là một trong những nước xuất khẩu khẩu cà phê hàng đầu thế giới, cà phê Việt Nam vẫn không có thương hiệu.
Thế thì cái chúng ta mất không chỉ là 48 ly cà phê còn lại trong 1 kg nhân nói trên mà là không ai biết đến cà phê Việt ngay cả khi họ đang nhấm nháp nó.
Và người nông dân trồng ra hàng triệu tấn cà phê mỗi năm vẫn khổ dù giá một ly cà phê do chính họ làm ra được bán tới vài "đô".
Việt Nam cũng được coi là "người khổng lồ" về xuất khẩu cao su nhưng 80% nguyên liệu trong lĩnh vực nhựa - cao su vẫn đang phải nhập khẩu.
3 năm nay, khi giá cao su lao dốc, ế ẩm, ở nhiều tỉnh, thành Tây nguyên, Nam bộ, người dân còn phải chặt bỏ cao su chuyển sang cây trồng khác.
Cũng như cà phê, lý do là tới trên 90% cao su của Việt Nam xuất thô, sản phẩm chế biến và tinh chế chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Trong khi phát triển công nghiệp chế biến sâu sản phẩm cao su mới tạo ra giá trị gia tăng rất lớn.
Có thể nói, nhiều mặt hàng nông sản của chúng ta hiện nay đều xuất thô. Cứ thu hoạch xong là bán phắt cho đối tác nước ngoài.
Năm nào thị trường dội hàng, giá giảm thì các doanh nghiệp giảm giá thu mua trong nước. Lỗ nông dân cũng phải bán vì không bán thì không biết để làm gì. Lỗ nhiều thì chặt bỏ, trồng cây khác.
Cơ sở hạ tầng phục vụ bảo quản, chế biến kém phát triển, quy mô công nghiệp chế biến nông sản còn nhỏ, công nghệ thiết bị lạc hậu... khiến giá trị hàng nông sản Việt Nam thường thấp hơn rất nhiều so với sản phẩm cùng loại từ nước khác.
Không chỉ mất về giá trị, đó cũng là cản trở khiến ngành nông nghiệp Việt chưa tạo ra được một thương hiệu nông sản nào dù đã có mặt ở gần khắp toàn cầu.
Muốn khắc phục, cần xây dựng cho được ngành công nghiệp chế biến.
Muốn xây dựng ngành công nghiệp chế biến, phải có vùng sản xuất tập trung. Từng bước đưa nông sản Việt tham gia vào chuỗi giá trị hàng hóa nông sản toàn cầu.
Tái cơ cấu nông nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt, cốt lõi cũng là đưa sản xuất, xuất khẩu nông nghiệp từ thô sang tinh để tạo giá trị gia tăng cho nền kinh tế và cải thiện đời sống của người nông dân.
Có thể bạn quan tâm

Đề án Thí điểm tổ chức khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ cá ngừ theo chuỗi tại 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn lợi cá ngừ đại dương, hài hòa lợi ích cho các bên tham gia trong chuỗi từ khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ với tinh thần chung là sẽ tập trung nguồn lực để thúc đẩy phát triển ngành cá ngừ, tạo ra liên kết chặt chẽ theo chuỗi giữa các khâu, đảm bảo giá trị kinh tế.

Mức giá hồ tiêu đầu năm 2014 tưởng được coi là kỷ lục với 145 ngàn/kg, nhưng đến tháng 7 còn lên tới 190 ngàn/kg. Giá tiêu càng hấp dẫn, nhiều nhà vườn càng chạy đua trồng tiêu.

Nếu lấy mốc thời gian năm 1996 (thời điểm Công ty Agifish xuất khẩu container cá basa đầu tiên vào thị trường Mỹ) để đề cập đến quá trình phát triển của một sản phẩm quốc gia thì đến nay, nghề nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu ở ĐBSCL đã “ngót nghét” gần 20 năm. Trong quãng thời gian ấy, có hàng chục ngàn người làm giàu một cách nhanh chóng, nhà máy chế biến thủy sản ra đời như “nấm mọc sau mưa”.

Từ chỗ toàn ngành chỉ XK được 11 triệu USD, không đủ cho việc nhập vật tư thiết bị cho SX trong nước, đến nay đã XK khoảng 6,5 tỷ USD; từ chỗ cả ngành nuôi trồng và khai thác thủy sản chỉ cung cấp được 600.000 tấn thủy hải sản cho nhu cầu tiêu dùng nội địa, đến nay đã SX trên 3 triệu tấn.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông lâm ngư (KNLN) Thừa Thiên Huế Bùi Thị Hải Yến cho biết, gần đây đơn vị thực hiện nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản xen ghép mang lại hiệu quả khả quan. Mô hình nuôi tôm sú-rong câu trong ao nước lợ thực hiện thí điểm trong năm 2014 mang lại kết quả như mong đợi. Ưu điểm của mô hình là giãn khoảng cách vụ nuôi, tác động tương hỗ giữa thực vật (rong biển) và động vật (tôm) đến môi trường, hạn chế tối đa dịch bệnh và mang lại lợi nhuận cao.