Từ Bản Liền Đến Ðịa Trung Hải

Được nông dân sản xuất theo quy trình an toàn, không có sự can thiệp của thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học, cây chè Tuyết shan xã Bản Liền (Bắc Hà - Lào Cai) giờ đã có chỗ đứng tại thị trường khó tính, đó là các nước ven Địa Trung Hải và châu u.
Danh tiếng một vùng chè
Nghe danh chè Tuyết shan Bản Liền đã lâu nhưng gần đây tôi mới được “mục sở thị” sản phẩm chè quý này. Theo lời giới thiệu của anh Nguyễn Xuân Giang, Phó trưởng Phòng Kinh tế huyện Bắc Hà thì giống chè Tuyết shan sinh trưởng và phát triển trên đất Bản Liền từ lâu, thậm chí người cao tuổi nhất xã cũng không thể biết giống chè ấy có từ bao giờ. Được trồng trên sườn núi cao, vì thế nước trà Tuyết shan Bản Liền xanh mát, tuy có vị chát mà uống xong lại ngọt tận cuống lưỡi.
Chạm đất Bản Liền, những nương chè dần hiện ra lấp ló dưới tán cọ như hình ảnh vùng trung du Bắc bộ. “Núi chè” Bản Liền không bạt ngàn, không được hái tỉa theo phương pháp công nghiệp với hàng, lối tăm tắp, chè có lá và búp khá to, nhiều cây cao quá đầu người, phải trèo lên cây mới hái được búp.
Điểm khác biệt giữa chè Bản Liền với chè một số vùng khác là được trồng theo phương pháp hữu cơ, không có sự can thiệp của thuốc trừ sâu hay phân bón hóa học, người dân chỉ dùng phân vi sinh để chăm sóc cây chè. Mỗi lô hàng chuẩn bị xuất khẩu, các chuyên gia của thị trường tiếp nhận sẽ tới Bản Liền kiểm tra chất lượng, nếu đảm bảo đầy đủ các yếu tố mới được nhập khẩu vào châu u.
Hành trình gian nan
Từ Bản Liền, xã xa trung tâm huyện Bắc Hà đến được trời u là hành trình dài và đầy gian khó. Năm 2005, Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) liên kết Sinh thái đã tìm thấy tiềm năng từ vùng chè Bản Liền, năm 2006, doanh nghiệp đã quyết định đầu tư nhà xưởng để chế biến chè sạch.
Doanh nghiệp tham gia ATC (tổ chức chuyên môn của Thái Lan về tiêu chuẩn quốc tế) và đã được tổ chức này giới thiệu thị trường tiêu thụ. Đến năm 2012, doanh nghiệp tăng công suất chế biến chè lên 4 tấn/ngày, tiếp tục mở rộng nhà xưởng quy mô với năng lực xuất khẩu từ 50 - 60 tấn chè khô/năm.
Anh Phạm Quang Thuận, Quản đốc Xưởng chế biến chè, Công ty TNHH liên kết Sinh thái cho biết: Các nước nhập khẩu chè của doanh nghiệp gồm Pháp, Ý, Tây Ban Nha… đã mời doanh nghiệp tham gia hội chợ nông nghiệp giới thiệu sản phẩm chè hữu cơ tại thị trường châu u. Tại đây, chè Bản Liền được đánh giá cao và cũng từ đó châu u là thị trường ổn định của doanh nghiệp.
Khác với thị trường Trung Đông, Ấn Độ, chè Tuyết shan Bản Liền bán giá cao và ổn định tại thị trường châu u, nên doanh nghiệp áp dụng giá thu mua nguyên liệu cao. Mỗi kg chè búp tươi loại 1 được doanh nghiệp thu mua với giá 8.500 đồng. Theo chị Vàng Thị Liên, một người trồng chè lâu năm thì quy trình chăm sóc chè hữu cơ khá chặt chẽ. Không có sự can thiệp của máy móc, phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, đảm bảo chè phát triển trong môi trường an toàn, sạch bệnh.
Thương hiệu chè Tuyết shan đã có, nhưng câu chuyện buồn nhất vẫn là hiện tượng tư thương thu mua chè vàng (chè cấp thấp) đã ảnh hưởng đến sự phát triển của diện tích chè quý này và khiến vùng nguyên liệu chè xuất khẩu bị thu hẹp. Cũng vì lý do đó mà Xưởng chế biến chè của Công ty TNHH liên kết Sinh thái không thể hoạt động quanh năm vì thiếu nguyên liệu. Dù đơn đặt hàng của đối tác lớn nhưng mỗi năm đơn vị chỉ chế biến được 50 - 60 tấn chè khô.
Những năm 60 của thế kỷ trước, Bản Liền là vùng nguyên liệu chè lớn, có xưởng thu mua nguyên liệu, chế biến chè khô quy mô lớn, nhưng đến những năm 80, 90 của thế kỷ trước, do hiệu quả kinh tế thấp, nên người dân đồng loạt chặt chè làm củi.
Trước nguy cơ mai một vùng nguyên liệu chè quý, huyện Bắc Hà đã xây dựng kế hoạch cải tạo, trồng mới diện tích tại vùng chè. Nguồn vốn 135 được phân bổ không chỉ cho Bản Liền mà còn là một số xã như Tả Van Chư, Lùng Phình, Hoàng Thu Phố, Lầu Thí Ngài để trồng chè Tuyết shan với 30 ha tăng thêm mỗi năm.
Vấn đề thu mua chè vàng đã được hạn chế, Xưởng chế biến chè tại xã Bản Liền cũng tăng dần giá thu mua khiến nông dân tin tưởng hơn. Các bạn hàng châu u đang tiếp tục đặt hàng, những điều này là tín hiệu vui đối với vùng chè Bản Liền.
Có thể bạn quan tâm

Thời điểm năm 2010 và 2011, khi dịch bệnh “tai xanh” hoành hành trên đàn heo, anh Trần Đình Hiển (ấp 9, xã An Linh, Phú Giáo, Bình Dương) lại thắng lớn với lợi nhuận gần 1 tỷ đồng từ trại heo của mình nhờ đàn heo không dính dịch bệnh “tai xanh”. Để có được kết quả này, anh Hiển đã áp dụng mô hình nuôi heo trại lạnh. Đây là mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao và là hướng đi bền vững cho người chăn nuôi heo trong bối cảnh dịch bệnh thường xuyên hoành hành như hiện nay.

Thời gian qua, do thời tiết nắng mưa xen kẽ, đêm và sáng có sương mù, độ ẩm cao đã tạo điều kiện cho bệnh phấn trắng trên cây cao su phát triển.

Mô hình tôm - lúa (1 vụ tôm, 1 vụ lúa) đã khẳng định được tính hiệu quả cũng như tính thích nghi đối với khu vực ven biển ĐBSCL; tiềm năng mỗi năm có thể mở rộng SX lên 200.000 - 250.000 ha, sản lượng đạt khoảng 1 triệu tấn lúa hữu cơ, đặc sản và trên 100.000 tấn tôm sạch phục vụ nhu cầu chế biến XK.

Trong khi một số nhà máy sản xuất hạt điều xuất khẩu lớn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thiếu nguyên liệu, phải thường xuyên nhập khẩu thì nông dân trồng điều lại không dễ dàng tiêu thụ sản phẩm của mình. Nghịch lý trên tồn tại nhiều năm qua, một phần do thiếu sự gắn kết giữa sản xuất và tiêu thụ.

Thời gian qua, mặt hàng nhãn tiêu da bò chủ yếu xuất khẩu, việc tiêu thụ ở nội địa rất hạn chế do có ít người ăn. Theo nhiều tiểu thương thu mua nhãn tiêu da bò, giá nhãn tiêu giảm là do đầu ra trong xuất khẩu đang yếu, giá nhãn tiêu da bò giảm mạnh làm không ít nhà vườn ngán ngại đầu tư, chăm sóc vườn nhãn. Trong khi đó, hiện bệnh chổi rồng trên cây nhãn vẫn tiếp tục gây hại, làm giảm năng suất, sản lượng cho trái của nhiều vườn nhãn tại ĐBSCL.