Trong Vòng 2 Năm Doanh Nghiệp Phân Bón Phải Bổ Sung Đủ Điều Kiện SX, KD

Bộ Công thương vừa có văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị định số 202/2013/NĐ-CP về quản lý phân bón.
Bộ Công thương vừa có văn bản gửi các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, XK, NK phân bón hay có hoạt động liên quan đến phân bón, hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị định số 202/2013/NĐ-CP về quản lý phân bón.
Theo đó, trong thời gian chưa có Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định 202, trên cơ sở thống nhất với Bộ NN-PTNT, Bộ Công thương yêu cầu các tổ chức, cá nhân đang sản xuất, kinh doanh phân bón nếu chưa đáp ứng đủ điều kiện về sản xuất, kinh doanh phân bón theo Nghị định số 202/2013/NĐ-CP thì trong vòng hai năm, tính từ ngày 1/2/2014 phải bổ sung đủ điều kiện, gồm: bổ sung trang thiết bị sản xuất, đo lường, kiểm tra chất lượng sản phẩm phân bón; bổ sung hoàn thiện hệ thống xử lý chất thải và hệ thống phòng cháy, chữa cháy theo quy định hiện hành; xác lập quyền sở hữu trí tuệ về thương hiệu cho các sản phẩm phân bón…
Tổ chức, cá nhân XNK phân bón thực hiện các quy định về điều kiện XK, NK phân bón tại Điều 16, Điều 17 Nghị định số 202/2013/NĐ-CP.
Về khảo nghiệm phân bón:
Đối với các loại phân bón đã qua khảo nghiệm được Hội đồng Khoa học công nghệ nghiệm thu các kết quả khảo nghiệm phân bón mới do Bộ NN-PTNT thành lập đã đạt yêu cầu thì được phép thực hiện chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy để sản xuất, kinh doanh và NK;
Đối với các loại phân bón đã được cấp Giấy chứng nhận khảo nghiệm, đang khảo nghiệm hoặc kết thúc khảo nghiệm theo quy định của Thông tư số 52/2010/TT-BNNPTNT nhưng chưa được Hội đồng Khoa học công nghệ nghiệm thu các kết quả khảo nghiệm phân bón mới thông qua phải thực hiện khảo nghiệm hoặc khảo nghiệm bổ sung theo quy phạm khảo nghiệm phân bón mới do Bộ NN-PTNT ban hành;
Đối với các loại phân bón chưa có quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng quy định tại Điều 18 Nghị định số 202/2013/NĐ-CP khi sản xuất hoặc NK trên nhãn sản phẩm phải ghi rõ “hàng mẫu” hoặc “sản phẩm nghiên cứu hoặc khảo nghiệm”, không được kinh doanh.
Hạn mức sản xuất, NK đối với phân bón vô cơ, phân bón hữu cơ và phân bón khác chưa có quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tạm thời dựa trên các căn cứ sau:
Liều lượng sử dụng cho loại cây trồng, loại phân bón có trong tài liệu hướng dẫn; tổng diện tích thử nghiệm không được vượt quá 30 ha cho một loại phân bón.
Về chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy:
Trong vòng 12 tháng, tính từ ngày 1/2/2014, tổ chức, cá nhân sản xuất, NK phân bón có tên trong Danh mục phân bón được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng ở Việt Nam do Bộ NN-PTNT ban hành phải chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy chất lượng đối với loại phân bón đang thực hiện sản xuất, NK.
Theo đó, có 10 loại phân bón phải chứng nhận hợp quy, gồm: ure; supe lân; phân lân nhập khẩu, DAP, phân lân nung chảy; phân hữu cơ; phân hữu cơ sinh học; phân hữu cơ khoáng; phân hữu cơ vi sinh; phân vi sinh vật; phân bón có bổ sung chất điều tiết sinh trưởng; các loại phân bón hữu cơ; hữu cơ khoáng, hữu cơ vi sinh, hữu cơ sinh học sản xuất từ nguyên liệu là rác thải đô thị, phế thải công nghiệp chế biến từ nông sản, thực phẩm, phế thải chăn nuôi.
Có thể bạn quan tâm

Chỉ trong vụ đông xuân vừa qua, 60 hộ nông dân trồng lúa tại xã Mỹ Thạnh Đông, huyện Đức Huệ, Long An đã thu hoạch tăng từ 6 tấn lên 8 tấn/ha. Niềm vui này có được là nhờ kiên trì áp dụng GlobalGAP.

Chế độ cho cán bộ khuyến nông vẫn thấp, tổ chức triển khai cơ chế chính sách và phương thức quản lý khuyến nông ở địa phương còn nhiều khó khăn, lúng túng... là thực tế mà ngành này đang phải đối mặt.

Chuột hoạt động mạnh và gây hại vào ban đêm, có thể di chuyển xa khoảng 2 km để tìm thức ăn và thường đi theo các đường mòn cố định. Mùa khô chúng thường sống tập trung trong hang ở các bờ mẩu, bờ đìa

Hiện giá cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL tăng so đầu tháng 5-2012, các công ty đang thu mua cá nguyên liệu với giá 23.500 - 24.000 đồng/kg. Đầu tháng 5, giá cá ở mức 20.000 - 22.500 đồng/kg, với giá thành sản xuất dao động từ 23.000 - 24.000 đồng/kg, người nuôi lỗ 3.000 - 4.000 đồng/kg.

Ước tính, lợi nhuận của sản phẩm gỗ tại thị trường nội địa cao hơn xuất khẩu tới 10%, tuy nhiên hiện nay, đây vẫn là "khoảng trống" của ngành gỗ nước ta.