Trồng Lạc Thu Đông Để Làm Giống

Tuy nhiên, do phải bảo quản giống với thời gian dài (6-7 tháng), mặt khác hạt giống lạc lại có hàm lượng dầu cao dễ biến chất làm mất sức nẩy mầm dẫn đến nhiều khi thiếu giống, ảnh hưởng lớn đến kế hoạch gieo trồng lạc xuân hàng năm. Từ kết quả đề tài "Nghiên cứu phát triển vụ lạc thu đông với các tỉnh phía Bắc" của Viện KHKTNN Việt Nam đến nay nhiều địa phương đã áp dụng thành công TBKT này nhằm chủ động cung cấp đủ giống lạc cho vụ lạc xuân.
Thực tế sản xuất lạc thu đông (TĐ) trong những năm gần đây của các tỉnh Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Tây, Hòa Bình, Bắc Giang, Hà Nội, Phú Thọ… cho thấy: sản xuất lạc TĐ để làm giống sẽ tiết kiệm dành ra được tới 9% sản lượng lạc vụ xuân cho xuất khẩu hoặc tiêu dùng nội địa.
Lạc giống được sản xuất vụ TĐ do có thời gian bảo quản ngắn nên tỷ lệ nẩy mầm cao, tiết kiệm được giống, mật độ cây đảm bảo, cây sinh trưởng khỏe dẫn đến năng suất cao. Cũng theo đánh giá của nhiều hộ gia đình: sản xuất lạc TĐ cho mức thu nhập cao hơn so với một số cây trồng khác (khoai lang, ngô, đậu tương) từ 6,4 đến 10,8 triệu đồng/ha.
Để đạt được năng suất cao, chất lượng lạc giống cho các vụ sau tốt, khi trồng lạc TĐ bà con cần áp dụng đồng bộ các biện pháp sau đây:
- Giống: Có thể chọn gieo các giống lạc mới chọn tạo như L14, LTD, TB25, L02, LVT, MD7, L05.
- Chọn và làm đất: Nên chọn các loại đất thịt nhẹ, đất cát pha có độ tơi xốp, dễ thoát nước, trên chân đất 2 vụ lúa, đất vàn cao, đất gò đồi, vùng bãi v.v… Đất được cày phơi ải, bừa kỹ cho nhỏ, tơi, nhặt sạch cỏ dại và lên luống rộng 1m, cao 20cm, rãnh rộng 30cm. Độ ẩm đất khi làm xong luống đạt khoảng 75%.
- Thời vụ: Có thể gieo từ 20-6 đến hết tháng 8.
- Phân bón: Lượng phân bón lót tính cho 1 sào Bắc bộ (360m2): 200-300kg phân chuồng ủ mục + 3-4kg phân urê + 15-20kg phân lân + 4-5kg phân kali + 20kg vôi bột. Nếu có điều kiện sử dụng phân NPK chuyên dùng cho cây lạc của nhà máy phân lân Văn Điển thì dùng với lượng từ 20-30kg/sào. Bón lót toàn bộ phân chuồng, phân lân, vôi bột trên mặt ruộng rồi bừa kỹ trước khi lên luống. Trộn đều phân đạm và kali, rải đều trên mặt luống rồi rạch 4 hàng theo chiều dọc luống cách nhau 20-25cm, sâu 3-4cm để gieo hạt.
- Gieo hạt: Ngâm hạt và ủ trong vải sạch cho hạt nứt nanh rồi gieo thì nhanh mọc mà và mọc đều. Gieo mỗi hốc 2 hạt, hốc cách hốc 16-18cm rồi lấp một lớp đất mỏng, tránh lấp sâu, lấp đất to ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây lạc làm giảm năng suất sau này. Lượng hạt giống cần dùng cho 1 sào Bắc bộ là 7kg.
- Phủ bạt nilon: Phun đều thuốc trừ cỏ tiền nẩy mầm Ronsta trên mặt luống sau khi gieo hạt rồi phủ bạt nilon dài theo luống. Nếu đất khô thì tưới nhẹ mặt luống trước khi phun thuốc trừ cỏ và phủ bạt nilon. Khi cây lạc mọc được 1 lá thật thì dùng ống bơ sắt có cắt hình răng cưa xung quanh để đục lỗ màng nilon cho cây lạc phát triển.
- Chăm sóc: Kiểm tra để dặm lại những chỗ không mọc nhằm đảm bảo mật độ đạt khoảng 40 cây/m2 mới cho năng suất cao. Tưới đủ nước vào 2 thời kỳ chủ yếu: khi cây bắt đầu ra hoa (có 6-7lá) và khi cây bắt đầu xuống củ bằng cách tưới theo rãnh (dẫn nước vào rãnh với chiều cao 2/3 rãnh cho ngấm dần vào mặt luống, sau đó tháo cạn nước, không để úng ngập gây chết cây) hoặc tưới phun.
- Phòng trừ sâu bệnh: Thường xuyên kiểm tra để phát hiện và phun trừ kịp thời các loại sâu ăn lá, sâu hại hoa, sâu đục gốc, bọ trĩ… và các loại bệnh chết ẻo, đốm lá…
- Thu hoạch: Thu hoạch khi có 80-85% số quả (củ) trên cây đạt độ già để tránh các bệnh hại quả, giảm chất lượng hạt. Với lạc để giống cần thu sớm hơn lạc thương phẩm từ 5-7 ngày khi số quả già đạt khoảng 70-75%. Rửa sạch, phân loại và phơi hoặc sấy khô, đem bảo quản trong kho khô ráo, thông thoáng.
Có thể bạn quan tâm

Đi dọc triền đê Sông Hồng (Yên Lạc, Vĩnh Phúc), tôi bị cuốn hút bởi màu xanh của những cánh đồng thanh hao hoa vàng với mùi hăng hắc rất đặc trưng. Năm 2006, cây thanh hao hoa vàng được triển khai trồng ở Yên Lạc đã mở ra một hướng đi mới cho người nông dân, nhưng niềm vui chưa trọn vẹn thì nỗi lo đã đến. Giá thanh hao hoa vàng lên xuống thất thường làm cho người trồng luôn trong trạng thái bất an.

Những năm gần đây, nhiều hộ gia đình tại xã Quảng Thọ (Quảng Điền - Thừa Thiên Huế) đã tận dụng nguồn nước sông Bồ để nuôi cá lồng, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Ở huyện Đại Từ (Thái Nguyên), nhiều nông dân gọi ông Lê Xuân Đình, Chủ tịch Hội Nông dân xã Vạn Thọ là “ông sọc dưa”. Cái tên ngồ ngộ này được nông dân trong vùng gắn cho, lâu ngày thành quen miệng. Bản thân ông Đình cũng thấy vui, vì cái việc chăn nuôi lợn rừng, cung cấp giống lợn rừng cho nông dân trong vùng đã trở nên quen thuộc.

Hiện nay Ninh Bình có khoảng 2.600 hộ gia đình, 3 doanh nghiệp và 15 tổ hợp tác với gần 8.000 lao động thường xuyên tham gia trồng nấm. Sản lượng nấm tươi hàng năm ước đạt 4.500 tấn, cho hiệu quả kinh tế gần 40 tỷ đồng.

Ngành tôm không chỉ bị ảnh hưởng bởi EMS mà còn rất nhiều dịch bệnh khác. Tuy nhiên, EMS là hội chứng mới nên đang thu hút quan tâm. Đáng lo ngại là cho tới thời điểm này vẫn chưa tìm ra nguồn gốc cũng như nguyên nhân gây bệnh của EMS và do đó chưa thể có phương pháp điều trị hội chứng này