Trồng Cao Su Ở Tây Bắc Bài Toán Kinh Tế Treo

"Nếu tôi là họ sẽ không tham gia dự án này vì chưa nhìn thấy hiệu quả. Thêm nữa, sẽ bấu víu vào đâu khi kịch bản xấu nhất xảy ra?"
Kết luận hiệu quả kinh tế cây cao su... còn chờ
Tiến sĩ Tô Xuân Phúc, chuyên gia phân tích chính sách Tổ chức Foress Trends, người đã dành khá nhiều tâm huyết để nghiên cứu về dự án phát triển cao su ở Việt Nam cho rằng, trồng cao su ở Tây Bắc đang đặt ra rất nhiều vấn đề. “Một là, người dân góp đất trồng cao su thì tư liệu sản xuất sẽ không còn, vậy tương lai của họ sẽ ra sao?
Khi không còn nguồn đất phục vụ kế sinh nhai, nguy cơ lấn vào đất rừng rất dễ xảy ra. Hai là, vấn đề về xã hội và văn hóa. Một số diện tích rừng cộng đồng được chuyển sang trồng cao su sẽ mất đi không gian văn hóa của đồng bào. Mà văn hóa là cốt lõi của phát triển. Bài toán đó sẽ phải giải quyết như thế nào?” – Tiến sĩ Tô Xuân Phúc băn khoăn.
Tập đoàn cao su giữ vai trò nòng cốt trong phát triển cao su ở Tây Bắc. Theo lý giải của ông Nguyễn Hồng Phú, Phó Tổng Giám đốc tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam, trong thời gian 2,3 năm đầu, khi cao su chưa khép tán, người dân hoàn toàn có thể canh tác dưới tán cao su và có thêm nguồn thu khi vào làm công nhân của Tập đoàn.
Tuy nhiên, theo phân tích của tiến sĩ Tô Xuân Phúc, nếu lấy trung bình ở khu vực Tây Bắc là 7-8 người mới chỉ có 1 người vào làm công nhân thì số lao động còn lại sẽ sống bằng gì? Chưa nói đến việc một số người không đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng vào làm công nhân do quá tuổi, do năng lực lao động và công việc chưa phù hợp.
“Vậy phát triển cao su ở Tây Bắc đã công bằng và có phải liệu tất cả mọi người đều được hưởng lợi? – Tiến sĩ Phúc đặt vấn đề.
Thêm nữa, canh tác trong thời kỳ chờ cao su khép tán chỉ nên sử dụng một số loại cây họ đậu, mà cây họ đậu lại đòi hỏi ánh sáng. Do vậy, xét về hiệu quả kinh tế thì năng suất cây trồng dưới tán cao su không đạt như mong muốn.
Đến nay, diện tích cao su ở Tây Bắc đã đạt 21.300 ha. Ông Lê Trọng Quảng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu cho rằng, Lai Châu có rất nhiều địa hình phù hợp cho loại cây công nghiệp “công chúa” này, khi đòi hỏi độ cao không quá 600 mét, độ đốc không vượt 30% và độ dày tầng đất phải đạt từ 60-70cm.
Đó là vùng thung lũng sông Đàm, sông Nậm Na, Nậm Mu… Nhờ vậy, chỉ trong vòng 5 năm, diện tích cao su ở Lai Châu tăng rất nhanh, đến nay dẫn đầu 3 tỉnh Tây Bắc với tổng diện tích lên tới 11.000 ha.
Hiện tại, phương thức thực hiện chính sách với người trồng cao su thuộc các tỉnh Tây Bắc chưa thống nhất. Ở Lai Châu, người dân góp đất làm vốn và được chia lãi 10% khi cao su cho mủ và được nhận vào làm công nhân cao su nếu góp đất đạt 1héc-ta và đáp ứng yêu cầu lao động phù hợp. Trong khi đó, ở Sơn La, phương án góp đất lại được tính 1 hec-ta tương đương 10 triệu đồng và người dân được tính lãi theo cổ tức của công ty.
“Đây là mô hình mới, khó làm và vẫn chưa đồng bộ. Hiện tại Bộ tài chính, Bộ Nông nghiệp và PTNT cùng các địa phương đang bàn để cho ra chính sách phù hợp” – ông Phú thừa nhận.
Người dân bấu víu vào đâu khi kịch bản cao su xấu nhất?
Như vậy, đến nay cao su ở Tây Bắc mới trồng được 5 năm, kết luận về hiệu quả, năng suất và bài toán kinh tế vẫn đang “treo" theo những dự báo, tính toán của Tập đoàn cao su. Thế nhưng người dân đã góp vốn, góp đất và “đánh cược” cả tương lai của mình vào dự án này.
“Nếu tôi là họ, tôi sẽ không tham gia vì tôi chưa thấy rõ hiệu quả việc làm của mình, tiềm ẩn những rủi ro mà tôi chỉ có tài sản là đất. Thêm nữa, mặc dù người dân đồng thuận nhưng họ thiếu kinh nghiệm, không có thông tin về thị trường, về những diễn biến sẽ xảy ra và khó có khả năng đối phó với kịch bản xấu nhất có thể đem lại…Vậy khi đó, họ sẽ bấu víu vào đâu?” – Tiến sĩ Tô Xuân Phúc đặt lại vấn đề.
Ông Phúc đề xuất trong điều kiện như vậy, rất cần xây dựng quỹ rủi ro cho người dân khi kịch bản cao su xấu nhất xảy ra. Thêm vào đó, phải có chính sách để mọi người dân đều có thể được hưởng lợi từ những thành quả dự án mang lại.
Phải thấy rõ rằng, những đổi thay ở các vùng nông thôn khi trồng cao su về đường sá, hạ tầng không phải từ cao su mang lại mà đều do đồng tiền vốn của nhà nước, nhà đầu tư và của chính quyền cơ sở đổ vào. Vì vậy, đánh giá hiệu quả của trồng cao su ở Tây Bắc cần thận trọng và phải nhìn nhận trên nhiều góc độ để tránh những tổn thương cho tầng lớp rất dễ bị tổn thương là người dân tham gia góp đất.
Hiện nay, dự báo về nguồn cầu cao su thế giới đã cho thấy những diễn biễn bão hòa. Theo các chuyên gia kinh tế, điều này sẽ tiếp diễn đến năm 2020. Thực tế giá cao su đang rất hạ, chỉ bằng 1/3 thời điểm cao nhất và cho thấy khó có dấu hiệu tăng trở lại trong khoảng thời gian ngắn. Cao su là mặt hàng công nghiệp chủ yếu dành xuất khẩu, vì vậy sẽ phụ thuộc lớn vào thị trường thế giới.
“Cao su thế giới đang ở mức tiêu thụ bị sụt giảm. Đây là những lưu ý để nghiên cứu thị trường sát hơn. Dự báo của chúng ta còn nhiều vấn đề, chưa thể đưa ra thật chính xác nếu không đủ căn cứ khoa học và thực tiễn.” – Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn cảnh báo.
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một sự khẳng định chắc chắn nào về hiệu quả kinh tế của cây cao su ở Tây Bắc. Câu trả lời sẽ bỏ ngỏ trong vòng 2,3 năm nữa.
Bên cạnh đó, những băn khoăn về cơ chế phân chia lợi nhuận giữa người dân và doanh nghiệp cũng như những tác động của dự án này đến đời sống xã hội, văn hóa cộng đồng cũng rất cần được đánh giá xem xét một cách thấu đáo. Cái giá “đánh đổi” giữa bài toán kinh tế với môi trường và văn hóa phải hài hòa theo đúng quy luật phát triển thì việc làm hôm nay mới không phải là “món nợ”của mai sau.
“Chủ trương của Lai Châu là người dân chỉ góp 70% quỹ đất, 30% để canh tác đảm bảo cuộc sống. Trồng cao su phải đảm bảo có lợi cho cả đôi bên. Người dân phải đồng thuận mới làm, mà làm trên nguyên tắc người dân góp đất trồng cao su phải có thu nhập cao hơn trước khi góp đất và doanh nghiệp cũng phải có lãi thì mới làm” - Ông Lê Trọng Quảng nhấn mạnh.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn
Phát triển cao su ở Tây Bắc, mà nòng cốt là Tập đoàn cao su Việt Nam với mô hình liên kết với địa phương, người dân góp đất làm vốn với doanh nghiệp và hưởng lợi theo chính sách thỏa thuận.
Theo báo cáo của Tập đoàn cao su, tăng trưởng cao su ở đây tương đối tốt, đạt tiêu chuẩn, từ trung bình khá trở lên. Tập đoàn cao su cũng đánh giá rằng, năng suất đạt bình quân chung của cả nước là 1,5-1,6 tấn/ha cho một chu kỳ kinh doanh ổn định.
Như vậy tạm thời có thể thấy là nếu nghiên cứu kỹ thì trồng cao su ở Tây Bắc là bước đầu thành công, tuy nhiên không phải toàn vùng vì một số người dân vẫn tự ý phát triển cao su ở những nơi không phù hợp nên đã có hiện tượng cao su không phát triển, bị chết…
Có thể bạn quan tâm

Thời điểm thu hoạch càphê niên vụ 2013-2014, giá càphê nhân trên thị trường Tây Nguyên đạt 34.000 đồng/kg, thậm chí có lúc chỉ còn 31.000 đồng/kg, khiến đa phần nông dân không dám bán mà cất trữ, chờ giá lên. Hiện tại, giá càphê nhân tại đây tăng lên 40.900 - 41.600 đồng/kg nên bà con đồng loạt bán ra thị trường.

Theo Tiến sĩ Trần Du Lịch, việc bà con nông dân được mùa-mất giá là do sản xuất nông nghiệp hiện vẫn trong tình trạng không chính quy, chạy theo phong trào.

Báo cáo tại hội nghị, ông Phạm Ngọc Tuấn, Phó cục trưởng Cục Khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản (Tổng cục Thủy sản) cho biết: Vụ cá Bắc năm 2013 – 2014 gặp nhiều khó khăn do thời tiết diễn biến thất thường; giá xăng, dầu tiếp tục tăng ảnh hưởng đến hoạt động khai thác hải sản; giá bán các sản phẩm khai thác không tăng; tình hình an ninh trên biển vẫn còn diễn biến phức tạp.

Bộ Công thương vừa có văn bản gửi các cơ quan thông tấn báo chí thông báo kết quả xác minh việc thương nhân Trung Quốc thu gom các loại nông, lâm sản và "những mặt hàng khác lạ"... sau khi yêu cầu các địa phương tăng cường kiểm tra, rà soát.

Sáng nay 30-3, Tổng Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) phối hợp với UBND tỉnh Phú Yên tổ chức Hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện Chiến lược phát triển Thủy sản Việt Nam và triển khai đề án “Tái cơ cấu ngành thủy sản”.