Tôm Giống Và Thả Tôm Giống

Con giống:
Tôm giống từ 1-4 tuần tuổi, khoẻ mạnh, không bệnh tật. Có thể sử dụng tôm giống đánh bắt trong tự nhiên.
Mật độ thả:
- Đối với ao nuôi mật độ 4 - 6 con/m2
- Đối với ruộng lúa mật độ 6 con/m2 diện tích mương
- Nuôi đánh tỉa thả bù: 16-22 con/m2 từ tháng thứ 7 trở đi, cứ hàng tháng đanh tỉa bớt tôm đạt tiêu chuẩn thương phẩm (45g) và đến tháng thứ 10 thả bù, số lượng thả bù là 50% số tôm giống ban đầu, sau đó cứ 6 tháng thả bù 1 lần.
Cách vận chuyển giống
Hiện nay, bà con nông dân quen nuôi tôm có kích thước từ 3-4 cm trở lên, chưa quen nuôi giống nhỏ, cho nên việc vận chuyển giống lớn phải đảm bảo kỹ thuật mới cho tỷ lệ sống cao.
Khi vận chuyển giống ở ao ương đi xa vùng nuôi, phải thu hoạch trước 1-2 ngày, cho tôm vào hai bể, để tôm khỏe rồi mới vận chuyển.
Dùng bao ny lon (60 x 90 cm) có bao ngoài bảo vệ, 1/3 nước và 2/3 bơm oxy, đóng 1.000 - 1.200 con/ bao, loại 3-4cm (0,5-1 g/con), nhiệt độ nước trong bao: 24oC. Thời gian vận chuyển: 8-10h.
Có thể bạn quan tâm

Chất lượng tôm giống là yếu tố quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến tỷ lệ hao hụt, năng suất và hiệu quả kinh tế của các mô hình nuôi tôm càng xanh. Nếu con giống tôm càng xanh kém chất lượng như: Kích cỡ không đều, bơi lội yếu, bị xây sát hoặc gãy chân do đánh bắt, thân có màu trắng đục hoặc có nhiều mầm bệnh, vỏ mềm do mới lột xác...

Ao nuôi được vét bùn sạch, chiều sâu khoảng 2,5m, chiều rộng và dài tùy theo kích thước ao. Bón khoảng 20kg vôi bột cho 100m2 ao, có thể bón thêm vôi khi độ pH chưa đạt mức 7 – 7,5. Bón thêm 40kg phân chuồng hoai và 0,5kg NPK cho 100m2 ao. Sau đó cho nước sông vào đạt độ sâu 1m (nước sông phải qua lưới lọc để tránh cá dữ).

Ruộng nuôi TCX phải có nước sạch và nguồn nước tốt cung cấp suôít thời gian nuôi và gần nguồn nước để thay nước dễ dàng.

Bệnh đen mang (có thể thấy màu vàng) thường có nguyên nhân từ đáy ao nuôi không sạch, có chất hữu cơ nhiều. Kiểm tra thấy khí độc (Ammonia) ở đáy ao cao vì có bùn đáy ao nhiều, các chất hữu cơ thừa nhiều (từ thức ăn thừa - do thức ăn nhiều tôm ăn không hết, từ tảo chết v.v..). Thường phát hiện bệnh này trong ao nuôi thả tôm mật độ cao, trong ao nuôi theo hệ thống không thay nước hoặc ít thay nước.

Bệnh này thường xảy ra khi ấu trùng ở giai đoạn 10-11,khi ấu trùng lột xác vỏ bị dính lại ở chủy (dạng nhẹ), dính ở chân ngực, không bơi được và chết, xảy ra chủ yếu vào ban đêm khi tôm lột xác. Tỷ lệ lột xác bị dính thường từ 10 –30%.