Tìm đầu ra cho hạt gạo

Sân nhà cũng đang “bỏ trống” !
Chuỗi giá trị ngành lúa gạo ở ĐBSCL nhìn chung còn nhiều hạn chế từ đầu vào lẫn đầu ra. Trong vùng vẫn còn thiếu các loại giống xác nhận, giống chất lượng cao, công tác kiểm soát giống còn nhiều bất cập, giống do người dân tự sản xuất còn nhiều; chất lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật chưa đảm bảo; dịch vụ khuyến nông hạn chế nhiều mặt, công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia tổ nhóm và hợp tác xã canh tác lúa chưa được tiến hành bài bản và theo các phương pháp tiếp cận phù hợp, dẫn đến tổ nhóm và hợp tác xã thiếu bền vững.
Phần lớn nông dân ĐBSCL còn duy trì giải pháp “an toàn”, đó là sản xuất lúa thường (IR 50404) “cho chắc”. Ngoài ra, kỹ thuật sấy, tạm trữ ở cấp hộ gia đình chưa tốt, công nghệ chế biến, bao bì, nhãn mác và kiểm soát kênh phân phối của các doanh nghiệp chưa đáp ứng nhu cầu, tính cam kết giữa các “nhà” trong liên kết “4 nhà” chưa chặt chẽ (nông dân và doanh nghiệp hay “bẻ kèo”), đối với nhà “bán lẻ” trong nước thì mối liên kết này càng lỏng lẻo hơn (tình trạng trưng bày gạo lộ thiên, trộn lẫn, nâng/giảm giá tùy tiện còn rất phổ biến).
Theo Vụ Kinh tế (Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ), vấn đề thiếu thương hiệu gạo xuất khẩu mạnh của quốc gia, của vùng ĐBSCL trên thị trường lúa gạo quốc tế đã được nhận diện từ lâu. Đối với gạo đặc sản, vấn đề xây dựng thương hiệu cần được ưu tiên trước khi bàn đến việc mở rộng sản xuất, tăng năng suất, tăng sản lượng. Tại vựa lúa ĐBSCL, đã có gạo “Một bụi đỏ Hồng Dân” (Bạc Liêu), “Nàng Nhen Bảy Núi” (An Giang), “Gạo Nàng Thơm Chợ Đào” (Long An) với giá bán có loại cao hơn gấp rưỡi gạo thường, nhưng lại chưa có các thương hiệu chỉ dẫn địa lý như “gạo Việt Nam”, “gạo ĐBSCL”, “gạo thơm Sóc Trăng”... để thế giới biết đến.
Bởi vậy, các loại gạo đặc sản nêu trên thực ra “nổi tiếng” chủ yếu trong nước do chưa có chỉ dẫn địa lý, một trong những yếu tố quan trọng của thương hiệu, để có thể đứng vững ở thị trường nước ngoài. Ngay cả phương thức phân phối trên thị trường nội địa cũng có vấn đề. Kênh phân phối truyền thống trong nước là gạo được phơi bán lộ thiên không đóng gói, không có nhãn mác, gạo bị trộn lẫn tùy tiện. Nếu không chấn chỉnh tình trạng này, gạo Việt có thể khó đứng vững ngay trên sân nhà, nhất là khi Cộng đồng kinh tế ASEAN được hình thành vào cuối năm nay và việc gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang gần kề… Khi đó, gạo ngoại sẽ xuất hiện ngày càng nhiều với chất lượng, mẫu mã, giá cả đa dạng, gạo Việt sẽ tổn thương nặng nề ngay trên sân nhà.
Chiến lược cho gạo thơm
Trong khoảng 7 năm qua, lúa thơm ST5 của Sóc Trăng đã được xuất khẩu với giá trị lên đến 730 USD/tấn. Nổi lên là nhóm nghiên cứu của kỹ sư Hồ Quang Cua đang có tham vọng đưa các giống ST đỏ, ST tím và các giống ST từ 20 đến 25, có giá trị xuất khẩu ở ngưỡng 800 USD/tấn.
Cùng lúc này, Myanmar có hai loại gạo thơm là Lone Thwal Hmwe và Paw San. Trong số này, Paw San được đánh giá là loại gạo ngon, giá xuất khẩu khoảng 900 USD/tấn. Giới hữu quan Myanmar cho biết, nông dân địa phương sẽ cần phải sản xuất thêm một khối lượng lớn gạo thơm để cung cấp cho thị trường EU do tiêu thụ nội địa đã chiếm gần hết sản lượng hàng năm. Và Myanmar đang đặt mục tiêu tăng 100% lượng gạo xuất khẩu trong năm 2015 (năm ngoái xuất 100.000 tấn) sang thị trường EU.
Các chuyên gia lúa gạo cho rằng, Myanmar xây dựng thị trường bài bản. Bước đầu họ giới thiệu mặt hàng, xây dựng thương hiệu. Khi khách hàng ăn quen và biết rõ chất lượng gạo của họ rồi, họ mới bắt đầu tung mạnh và tổ chức sản xuất. Đây là những bài học mà Việt Nam cần tham khảo. Không chỉ Myanmar mà Campuchia cũng là một đối thủ “tiềm năng” trong xuất khẩu gạo đối với Việt Nam.
Các chuyên gia lúa gạo đã cảnh báo, cần thận trọng với thị trường gạo phẩm cấp thấp xuất vào thị trường Trung Quốc. Trong khi đó, gạo thơm lại “lộ diện” nhiều đối thủ. Đây là những thách thức nhưng cũng là cơ hội để Việt Nam tái cơ cấu lại các mặt hàng xuất khẩu gạo. Trong bối cảnh đó, người ta đặt kỳ vọng vào Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA). Người vừa được bầu vào vị trí “lèo lái” con thuyền VFA chính là ông Huỳnh Thế Năng - một người khá am hiểu về vựa lúa ĐBSCL.
Ông Huỳnh Thế Năng từng giữ vị trí Giám đốc Sở NN&PTNT rồi Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang. An Giang là một trong những tỉnh ĐBSCL dẫn đầu khá nhiều về các tiến bộ trong sản xuất nông nghiệp - nhất là cây lúa. Chính vì vậy, người ta hy vọng Chủ tịch VFA Huỳnh Thế Năng sẽ tìm ra những bước đi căn cơ để hình thành các phân khúc xuất khẩu gạo trên nền tảng hình thành các vùng nguyên liệu ổn định!
Có thể bạn quan tâm

Ông Nguyễn Thanh Tùng ngụ ấp Trung Bình 2, xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn cho biết: Gia đình ông chủ yếu là sản xuất lúa, nhưng do lúa thời gian gần đây xảy ra dịch bệnh nhiều, ảnh hưởng của thời tiết nên năng suất lúa thường đạt thấp, giá cả lại bấp bên nên ông muốn tìm mô hình mới đưa vào sản xuất để góp phần cải thiện cuộc sống gia đình.

UBND huyện hỗ trợ 50 nghìn đồng/sào để tập huấn quy trình kỹ thuật chăm sóc và mua giống. Diện tích dưa sinh trưởng, phát triển tốt, năng suất ước đạt 1 tấn/sào. Công ty Xuất nhập khẩu nông sản Hải Dương ký kết bao tiêu sản phẩm với giá 6,5 nghìn đồng/kg, trừ chi phí nông dân ước thu lãi gần 150 triệu đồng/ha/vụ.

Được biết, mô hình này triển khai 2 giai đoạn. Giai đoạn 1, bắt đầu trồng từ tháng 10.2014, với số lượng 2.000 cây, trên diện tích 0,5ha; giai đoạn 2 sẽ trồng tiếp 0,5 ha trong năm 2015. Sau khi trồng thí điểm thành công, Ban Quản lý rừng phòng hộ sẽ tiến hành chuyển giao kỹ thuật, mở rộng diện tích giúp người dân phát triển kinh tế gia đình và tham gia bảo vệ rừng.

Với khoảng thời gian hơn 10 năm, cây chè Shan tuyết khẳng định ưu thế trên vùng đất Huồi Tụ và Mường Lống của huyện biên giới Kỳ sơn. Sản phẩm chè Shan tuyết ở Nghệ An đã được người tiêu dùng biết đến. Tuy nhiên, để nâng cao giá trị, cần tăng cường công tác chế biến và quảng bá cho thương hiệu vươn xa hơn…

Hiện tại, bà con vùng màu của huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) đang vào mùa thu hoạch rộ khoai môn và củ kiệu. Theo phản ánh của bà con nông dân, do năm nay thời tiết không thuận lợi nên năng suất của kiệu và khoai môn giảm trung bình từ 20 – 30% so với cùng kỳ năm trước.