Tiềm năng xuất khẩu trứng vịt muối

Xuất khẩu “phập phù”
Hiện nay, Việt Nam có tổng đàn vịt đứng thứ hai trên thế giới sau Trung Quốc, thuộc “top 10” quốc gia có sản lượng thịt và trứng vịt lớn nhất trên thế giới. Đây là vật nuôi có nhiều lợi thế.
Tuy nhiên, việc phát triển sản xuất vịt trong nước cũng như xuất khẩu hiện còn nhiều hạn chế.
Trao đổi với phóng viên Báo Hải quan, ông Nguyễn Thanh Sơn, Viện trưởng Viện Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi gia cầm Việt Nam đánh giá: Trứng vịt muối là một trong những mặt hàng xuất khẩu nhiều tiềm năng.
Sản phẩm trứng vịt muối của Việt Nam được ưa chuộng bởi có hương vị khá đặc biệt mà trứng vịt muối các nước khác không có, nhất là trứng từ đàn vịt nuôi thả ở vùng ĐBSCL.
Mặc dù có tiềm năng xuất khẩu lớn nhưng hiện nay cả nước mới có 3 DN xuất khẩu trứng vịt muối và cũng chỉ xuất khẩu chủ yếu sang 3 thị trường là Singapore, Malaysia, Hồng Kông (Trung Quốc).
Điều đáng lưu ý là, suốt từ năm 2010 đến nay, xuất khẩu mặt hàng này thường xuyên thiếu sự ổn định khi số lượng tăng giảm thất thường.
Cụ thể, nếu như năm 2010, cả nước xuất khẩu hơn 34,1 triệu quả thì năm 2011 lại giảm xuống gần 32 triệu quả. Năm 2012, con số này giảm xuống hơn 22,7 triệu quả và tới năm 2013 tiếp tục sụt giảm chỉ còn hơn 18,1 triệu quả.
Đang trong đà sụt giảm liên tiếp vài năm liền nhưng đến năm 2014, xuất khẩu trứng vịt muối đột ngột tăng lên so với năm trước khi đạt trên 27,1 triệu quả. Và tính tới hết nửa đầu năm 2015, tổng số trứng vịt muối xuất khẩu đạt hơn 10,2 triệu quả.
Một số chuyên gia đánh giá, điểm yếu nổi bật trong sản xuất, xuất khẩu trứng vịt muối của Việt Nam là các DN chưa tổ chức sản xuất theo chuỗi, việc giao thương hầu như mang tính gia đình, truyền thống.
Bên cạnh đó, DN cũng chưa chủ động nghiên cứu, mở rộng khách hàng/thị trường sẵn có và phát triển những thị trường mới nhiều tiềm năng khác.
Ngoài ra, việc mở rộng đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ mới và các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt như VietGAP, G.GAP, EuroGAP, ASEANGAP…
Vào quá trình thu gom, xử lý và chế biến trứng muối còn nhiều vấn đề phải tính toán, trong đó việc hình thành các vùng, cơ sở an toàn dịch đối với cúm gia cầm của các cơ sở chăn nuôi cung cấp trứng cho 3 DN xuất khẩu trứng vịt muối kể trên còn chưa hình thành liên kết sản xuất.
Cần tích cực vào cuộc
Theo ông Nguyễn Thanh Sơn, muốn thúc đẩy xuất khẩu trứng vịt muối, quan trọng là phải tổ chức lại sản xuất theo chuỗi.
Theo đó, phải đầu tư đảm bảo khép kín từ khâu đầu vào thức ăn, con giống, vùng chăn thả cho đến nguyên liệu làm vỏ bọc cho quả trứng muối và tiêu thụ sản phẩm.
“Lâu nay, xuất khẩu trứng vịt muối chủ yếu do DN quy mô vừa ở phía Nam tự tổ chức.
Nhà nước chưa có bất kỳ chính sách nào tác động đến tổ chức sản xuất, xuất khẩu ngành hàng này. Đối với riêng việc hình thành chuỗi sản xuất, tôi cho rằng vai trò của Nhà nước rất quan trọng trong khâu tổ chức kết nối trong toàn bộ chuỗi.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng phải đưa ra các chính sách để quảng bá thương hiệu, mở rộng thị trường… cho sản phẩm trứng vịt muối” ông Sơn nhấn mạnh.
Đi vào từng khía cạnh cụ thể, một số chuyên gia đề xuất, muốn ngành trứng muối đẩy mạnh xuất khẩu, tận dụng tốt tiềm năng sẵn có, cơ quan thú y phải tăng cường hơn nữa năng lực kiểm tra chất lượng trứng xuất khẩu;
Tạo điều kiện thuận lợi trong việc cấp chứng nhận an toàn dịch cúm gia cầm cho các cơ sở chăn nuôi vịt lấy trứng nguyên liệu cho xuất khẩu.
Đối với các DN xuất khẩu, việc cần thiết là chú trọng tổ chức chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; khẩn trương phát triển hệ thống các cơ sở chăn nuôi sạch, đảm bảo an toàn dịch bệnh (mô hình chăn nuôi vịt khép kín, an toàn sinh học).
Bên cạnh đó, các DN cũng cần nghiên cứu đa dạng các sản phẩm trứng vịt muối như trứng muối nước, trứng muối hút chân không…
Đảm bảo yêu cầu vệ sinh môi trường và an toàn vệ sinh thực phẩm, cùng với đó tăng cường công tác nghiên cứu thị hiếu, nhu cầu sản phẩm trứng muối ở một số thị trường tiềm năng chưa khai thác như Australia, Brunei, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc)…
Có thể bạn quan tâm

Hải Lăng (Quảng Trị) có diện tích nuôi trồng thủy sản khá lớn với hơn 500 ha diện tích ao hồ. Trong đó diện tích nuôi tôm trên cát ven biển ở hai xã Hải An và Hải Khê chiếm gần 100 ha. Nhiều năm qua nhờ phát triển nuôi tôm nên nhiều hộ gia đình đã trở nên giàu có, tuy nhiên do nằm sát với bờ biển nên rất dễ bị thiên tai tàn phá. Trước thực trạng đó, để đảm bảo an toàn ao hồ nuôi trồng thủy sản trong mùa mưa bão năm 2013, huyện Hải Lăng đang tiến hành triển khai nhiều biện pháp hữu hiệu nhằm giúp người nuôi tôm bảo vệ tốt tài sản của mình.

Những năm gần đây, nuôi ngao thực sự là nghề “nóng” của người dân ven biển huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), bởi nó mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên hiện nay, giá bán ngao thương phẩm đang giảm mạnh, thị trường tiêu thụ gặp rất nhiều khó khăn. Người dân phát triển nuôi ngao ồ ạt, tự phát, không theo quy hoạch sẽ khó tránh khỏi những hệ lụy xấu...

Đã qua rồi thời hỗn loạn, người thì nuôi, kẻ khai thác tranh giành nguồn lợi từ con nghêu của bãi bồi Đất Mũi (Cà Mau). Sau khi sắp xếp lại một cách toàn diện, vùng nuôi nghêu bãi bồi đang dần đi vào ổn định.

Thời gian gần đây do nuôi tôm thẻ chân trắng được mùa, lợi nhuận cao nên một số hộ dân ở Bình Đại (Bến Tre) tự phát đào ao, khoan giếng nước mặn nuôi tôm biển trong vùng qui hoạch, có lúc lên đến trên 1.000 giếng khoan. Để khắc phục tình trạng trên, Ban Thường vụ Huyện ủy Bình Đại đã ban hành Chỉ thị số 05, UBND huyện Bình Đại có Kế hoạch số 2184 nhằm khắc phục những bất hợp lý vừa qua.

Giải pháp “Ứng dụng phương pháp cho ăn gián đoạn để giảm chi phí sản xuất trong chăn nuôi cá tra thương phẩm” của ThS. Phạm Thị Thu Hồng và cộng sự thuộc Chi cục Thủy sản Vĩnh Long đã đạt giải nhì trong Hội thi Sáng tạo kỹ thuật Trần Đại Nghĩa lần thứ IV, năm 2012- 2013.