Tăng đầu tư cho các xã miền núi

Miền núi gian nan làm nông thôn mới
Ngày 26.11.2015, Ban chỉ đạo T.Ư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM (Ban chỉ đạo) tổ chức Hội thảo “Đề xuất giải pháp NTM ở những xã khó khăn”.
Ông Nguyễn Minh Tiến - Phó Chánh văn phòng Điều phối NTM T.Ư cho biết, tính đến hết tháng 11.2015, cả nước có 1.298 xã (chiếm khoảng 14,5% tổng số xã) được công nhận đạt chuẩn NTM.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã công nhận 10 huyện, thị xã đạt chuẩn NTM.
Tuy vậy, trong số gần 9.000 xã trên cả nước, có 2.535 xã khó khăn là những xã ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, bình quân mới đạt khoảng 5,94 tiêu chí NTM/xã, trong khi cả nước là 13,56 tiêu chí/xã.
Thu nhập bình quân đầu người mỗi năm ở các xã khó khăn chỉ đạt 14,07 triệu đồng, trong khi bình quân cả nước là 24,6 triệu đồng.
“Đối với các xã khó khăn, việc đạt chuẩn đủ 19 tiêu chí trong 5 năm tới sẽ khó khả thi.
Do vậy, cần có điều chỉnh về cách làm, cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ cho các xã đó” - ông Tiến nhấn mạnh.
Những vùng sâu, vùng xa như xã Trung Lý, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) việc xây dựng NTM còn rất nhiều khó khăn.
Căn cứ vào thực tế trên, Ban chỉ đạo đã đề xuất vốn đầu tư của Nhà nước cho xây dựng NTM tại các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn (gồm các xã 30a, 30b, huyện miền núi) sẽ cao tối thiểu gấp 4 lần các xã không thuộc diện ưu tiên.
Đến tháng 3.2016, T.Ư sẽ thông báo kế hoạch vốn trung hạn giai đoạn 2016-2020, với dự kiến vốn ngân sách bố trí cho chương trình NTM 2016-2020 tối thiểu là 193.155,6 tỷ đồng.
Phần lớn nguồn vốn này sẽ ưu tiên dành cho khu vực khó khăn.
Cần xác định mục tiêu phù hợp
" Cần cho phép địa phương được dồn nguồn lực từ các nguồn vốn của T.Ư và địa phương để đầu tư cho các xã miền núi theo lối “cuốn chiếu”, dễ làm trước, khó làm sau, chứ không nên chia đều dàn trải cho các xã như hiện nay sẽ ít hiệu quả”. Ông Trần Hưng Lợi - Phó Chánh văn phòng điều phối NTM tỉnh Phú Yên
Ban chỉ đạo cho biết, vốn đầu tư của Nhà nước sẽ ưu tiên vào nâng cấp 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu- giao thông, điện, nước sạch, thủy lợi, trường học, trạm y tế.
Nhà nước cũng sẽ có cơ chế chính sách hỗ trợ cải thiện các công trình cơ sở hạ tầng gia đình (nhà vệ sinh, nước hợp vệ sinh, chuồng trại hợp vệ sinh); hỗ trợ phát triển sản xuất.
Bên cạnh đó, Ban chỉ đạo cũng đề xuất sửa đổi các tiêu chí NTM, trong đó hạ một số tiêu chí cho phù hợp với vùng khó khăn.
Ông Trần Hưng Lợi - Phó Chánh văn phòng điều phối NTM tỉnh Phú Yên cho rằng, với những khó khăn chồng chất, nhiều xã miền núi sẽ khó bảo đảm đạt mục tiêu NTM đúng lộ trình.
Do vậy, xây dựng NTM ở những vùng khó khăn cần “liệu cơm gắp mắm”.
Bên cạnh sự quyết tâm, nỗ lực của chính quyền địa phương và người dân, T.Ư cũng cần quan tâm đầu tư kịp thời và đồng bộ các chính sách, làm sao để đầu tư không còn manh mún.
Nên ưu tiên quy hoạch và thực hiện quy hoạch vùng sản xuất nông-lâm nghiệp theo thế mạnh từng xã, có cơ chế hỗ trợ sản xuất cho phù hợp với điều kiện phát triển sản xuất ở các xã miền núi, khó khăn.
Có thể bạn quan tâm

Những ngày qua, tranh thủ thời tiết thuận lợi, các hộ nông dân và các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản (NTTS) tại các địa phương trên địa bàn tỉnh Nam Định đã và đang tích cực đẩy nhanh tiến độ cải tạo ao, đầm, chuẩn bị các điều kiện cho vụ nuôi thả thủy sản mới.

Hiện ông nuôi 15 vèo, mỗi vèo thả 3.000 ếch giống. Ếch giống mua ở huyện Cái Bè, 600 - 1.300 đồng/con (tùy thời điểm). Vèo có diện tích 12m2 làm từ lưới Thái, phần đáy được phủ tấm nhựa để trữ nước. Bên ngoài vèo, ông thả nuôi kết hợp 4.000 cá tra và 1.000 cá trê.

Cá nặng 65kg, dài 1,7m. Đây là loại cá da trơn trong họ cá nheo. Chúng ăn thịt động vật và sống ở môi trường nước ngọt hoặc nước lợ. Bình thường loài cá này sống trong hang hốc dọc bờ sông và kênh rạch nơi có bờ cỏ. Mùa hè đến chúng đến các sông suối nhỏ để sinh sản.

hơn 90% số vụ vi phạm. Có thể nói qua triển khai dự án, tính gắn kết, đoàn kết trong cộng đồng ngư dân ngày càng được tăng cường; mối quan hệ giữa cơ quan chức năng và chính quyền địa phương với ngư dân ngày càng được thắt chặt, tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng hơn trong công tác quản lý của cơ quan nhà nước.

Theo đó, lượng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu năm 2015 được quy định cụ thể như sau: trứng gà (mã số hàng hóa 0407.21.00 và 0407.90.10), trứng vịt, ngan (mã số hàng hóa 0407.29.10 và 0407.90.20), loại khác (mã số hàng hóa 0407.29.90 và 0407.90.90) có số lượng là 46.305 tá (lưu ý các loại trứng này là trứng thương phẩm không có phôi); muối (mã số hàng hóa 2501) có số lượng là 102.000 tấn.