Tận dụng bã thải hầm biogas để nuôi cá nước ngọt

Bã thải biogas
Bã thải biogas là một loại phân hữu cơ đã được phân hủy kỵ khí, các chất dinh dưỡng cơ bản được bảo tồn trong bã thải. Các chất dinh dưỡng có trong bã thải biogas cao hơn so với phân chuồng và phân ủ theo phương pháp thông thường, ngoài các nguyên tố dinh dưỡng như Nitơ, Kali, Photpho bã thải biogas còn chứa nhiều chất hữu cơ và các nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển của sinh vật thủy sinh như là các axit humic, cellulose, hemicellulose, lignin, có tác dụng gây nuôi thức ăn tự nhiên tốt hơn phân ủ.
Bã thải biogas được coi là một loại phân sạch vì các mầm bệnh đã bị tiêu diệt qua quá trình lên men sinh học. Sử dụng bã thải biogas để nuôi cá nước ngọt góp phần giảm các loại bệnh cho cá, nhất là các bệnh ở mang, da. Khi sử dụng bã thải biogas, nước nhanh lên màu, ổn định pH nước, giảm cường độ ánh sáng, tạo điều kiện thuận lợi để cá phát triển. So với ao không sử dụng bã thải biogas và những ao sử dụng phân chuồng thì những ao có sử dụng bã thải biogas có năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn.
Do bã thải biogas có khả năng gia tăng lượng thức ăn tự nhiên giàu dinh dưỡng, dễ tiêu hóa hấp thu giúp cho cá sinh trưởng và phát triển mạnh. Đồng thời giảm được lượng thức ăn công nghiệp, thức ăn tự chế, giảm hệ số chuyển đổi thức ăn.
Phương pháp nuôi
Định kỳ 3 ngày một lần, tưới đều bã thải biogas trên mặt ao với mức 0,5 - 0,6 kg/m2, tương đương 5.000 - 6.000 kg/ha. Ao nuôi có sử dụng bã thải biogas nên có độ sâu 2 - 3 m, chiều sâu mực nước 1,5 - 2,5 m. Diện tích ao nuôi phù hợp với lượng gia súc, gia cầm thải phân vào hệ thống biogas. Với những ao nuôi khoảng 1.000 m2, thì cần lượng phân sau khi xử lý qua hệ thống biogas 12 m3, nuôi 30 - 35 con lợn, trọng lượng trung bình 60 kg. Ngoài ra, còn dựa vào hàm lượng ôxy hòa tan mà điều chỉnh lượng bã thải xuống ao nuôi cho hợp lý.
Khi hàm lượng ôxy hòa tan xuống thấp hoặc cá có biểu hiện nổi đầu thì cần có biện pháp xả bớt lượng chất xả thải ra bên ngoài ao nuôi. Nếu thấy cá vẫn nổi đầu thì cần quạt nước, sục khí, tăng cường hàm lượng ôxy hòa tan và thay nước để giảm bớt mật độ chất thải hữu cơ trong ao nuôi. Mật độ cá nuôi từ 5 - 6 con/10 m2, có khi 7 con/10 m2, nếu ao nuôi rộng trên 1.000 m2, đảm bảo nước sâu thường xuyên từ 2 - 3 m và đầy đủ thức ăn.
Khi sử dụng bã thải biogas cho ao ương, nuôi cá nước ngọt đều phải tiến hành cải tạo ao theo đúng quy chuẩn kỹ thuật.
Đối với ao sản xuất cá giống, trước khi nuôi cá phải nạo vét bùn; sửa sang bờ ao; bón vôi (100 kg vôi/1.000 m2 ao); phơi khô ao ít nhất 1 tuần; duy trì độ sâu của ao từ 1,5 - 2 m. Nếu đào ao mới thì phải đào sâu 2 - 3 m. Sau khi xử lý nước bằng bã thải biogas đến khi nước có màu trong mới thả cá bột. Mật độ thả cá bột 3 - 5 con/m2.
Có thể bạn quan tâm

Xã Tân An là một trong những vựa rau lớn của Gia Lai nói chung và huyện Đak Pơ nói riêng. Thế nhưng những ngày qua, bầu không khí ảm đạm đang bao trùm khắp nơi đây, bởi lẽ người dân phải bán tống bán tháo hoa màu, thậm chí phá bỏ cho gia cầm, gia súc ăn vì giá quá rẻ.

Để thúc đẩy nền nông nghiệp huyện nhà phát triển theo hướng bền vững, ngành Nông nghiệp huyện Kbang đã tích cực triển khai nhiều biện pháp mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần cải thiện đời sống vật chất của người dân trên địa bàn huyện, tiến tới mục tiêu xóa đói giảm nghèo.

Sáng mùng 2 Tết, sau bữa cơm quần tụ với con cháu, gia đình, bác Lê Thị Tình (54 tuổi), ở làng Bi, xã Ia Dom đã tranh thủ lặn lội lên vườn cách nhà hơn 2 km để nhặt hạt điều. “Vườn xa nhà nên sợ mất trộm, Tết nhất vẫn tranh thủ đi nhặt hạt từ các quả chín rụng xuống đất. Thấy của phơi ngoài vườn ngồi không yên được, bởi tiền bạc lo lắng mọi việc, kể cả con cái học hành đều trông cả vào đó”- bác Tình, tâm sự.

Chiều mùng 6 Tết, tại khu vực bến thuyền nhỏ ở tổ dân phố Thủy Đầm, phường Ninh Thủy, thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa), cảnh mua bán ruốc diễn ra khá tấp nập. Dưới bến, nhiều chiếc thuyền thúng liên tục chuyển ruốc từ những con tàu đậu ngoài xa vào bờ. Trên bến, hàng chục người đang tất bật bốc xếp những sọt ruốc tươi rói cân bán cho các thương lái.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương, cơ sở sản xuất giống thủy sản chuẩn bị cải tạo ao, bể ương, lấy nước dự trữ ương nuôi giống, xác định nhu cầu con giống của các địa phương và các vùng lân cận. Xây dựng kế hoạch sản xuất ngay từ đầu năm, để kịp thời cung ứng giống phục vụ người nuôi bảo đảm kịp thời vụ.