Tái cơ cấu chăn nuôi trong xu thế hội nhập TPP
Để chăn nuôi phát triển nhanh và bền vững cần thay thế dần quy mô nhỏ lẻ thành quy mô vừa và lớn
Tại hội thảo khoa học “Vai trò của khoa học và công nghệ trong tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Võ Anh Khoa - Trưởng Bộ môn Chăn nuôi Khoa Nông nghiệp và sinh học ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ đã phát biểu một số nội dung liên quan đến tái cơ cấu chăn nuôi trong xu thế hội nhập TPP.
Tại ĐBSCL, mặc dù gần đây có sự chuyển biến rõ nét về quy mô đàn trong cơ cấu chăn nuôi, nhờ vào các chủ trương mới trong chương trình tái cơ cấu nông nghiệp của địa phương và sự đầu tư của các trang trại, công ty (theo hệ thống gia công), nhưng tầm vóc và hiệu quả chăn nuôi ở ĐBSCL vẫn còn thua xa các tỉnh miền Đông Nam bộ.
Theo PGS.TS Đỗ Võ Anh Khoa, nguyên nhân chủ yếu là do: tập quán sản xuất, chi phí đầu tư xây dựng (cấu trúc đất), thị trường tiêu thụ (thu nhập thấp, quy mô nhỏ lẻ, thực phẩm tự nhiên);
Giá thành sản phẩm (vận chuyển nguyên liệu và sản phẩm sau giết mổ, đồng nhất chất lượng...); biên độ dao động của giá cả thị trường, kiểm soát dịch bệnh quy mô nhỏ lẻ, xuất khẩu), vốn đầu tư, kỹ thuật, chất lượng con giống...
Đề cập đến vấn đề tái cơ cấu chăn nuôi trong xu thế hội nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), PGS.TS Đỗ Võ Anh Khoa cho rằng, để chăn nuôi phát triển nhanh và bền vững cần thay thế dần quy mô nhỏ lẻ thành quy mô vừa và lớn trong mối liên kết chuỗi giá trị sản xuất - chế biến - kinh doanh sản phẩm chăn nuôi.
Điều này cần được thực hiện quy mô cấp vùng chứ không chỉ riêng một địa phương nào cả.
Bởi chi phí đầu tư, nguồn vốn lưu động (duy trì sản xuất trong nhiều năm liên tục, tái đàn...) và giá trị tài sản chăn nuôi là khá lớn.
Đầu tư hỗ trợ chăn nuôi (chính sách, vốn...) vì thế cũng cần chú ý vào các trang trại/doanh nghiệp...
vì họ có ý tưởng, kinh nghiệm và tư duy phát triển tốt.
Như thế mức độ an toàn, bảo tồn nguồn vốn sẽ chắc chắn hơn.
Trong xu thế hội nhập TPP, giá cả thị trường nguyên liệu và sản phẩm chăn nuôi có thể sẽ dao động theo biên độ hẹp và ổn định hơn, giúp người chăn nuôi tiên đoán giá thành để có kế hoạch tổ chức sản xuất hợp lý (tăng - giảm đàn, hướng sản xuất...).
Bước vào cuộc chơi TPP nghĩa là biên giới của thị trường sản phẩm và thị trường lao động sẽ rộng hơn.
Cơ hội và thách thức sẽ đính kèm.
Sự sáp nhập của các công ty trong nước sẽ làm đối trọng với các công ty ngoài nước, hoặc sự thâu tóm các doanh nghiệp nhỏ... là điều có thể xảy ra trong tương lai gần.
Chia sẻ về vai trò của khoa học công nghệ (KHCN) trong sản xuất chăn nuôi bền vững, PGS.TS Đỗ Võ Anh Khoa nhận định, ngày nay chăn nuôi cũng không thể tách rời khỏi đời sống cơ bản và ngày càng cao của con người.
Sản phẩm chăn nuôi thông thường (thịt, trứng, sữa...), cả lượng và chất ngày càng được chú trọng cho người già và trẻ con, kể cả đối với những gia đình có thu nhập thấp.
KHCN là động lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Để KHCN đi vào sản xuất chăn nuôi có hiệu quả hơn, đầu tư nghiên cứu chăn nuôi cần phải dựa trên quy hoạch tổng thể, xác định cây thức ăn và con giống chủ lực của vùng.
Song song đó, tập trung đẩy mạnh công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật giữa các địa phương để đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào sản xuất, tránh trùng lắp, giảm thiểu chi phí đầu tư.
Nghiên cứu tạo ra các sản phẩm chăn nuôi (giống, thịt, trứng, sữa...) có những ưu điểm riêng để không cạnh tranh với các sản phẩm nhập nội, đồng thời có thể xuất khẩu tốt (ví dụ: giống lai có sức kháng và chất lượng thơm ngon, chăn nuôi hữu cơ/an toàn sinh học...).
Thực hiện các chương trình nghiên cứu quy mô cấp vùng dựa trên sự kết hợp kinh phí và phối hợp thực hiện của các bộ, ngành trung ương và các địa phương.
Giải quyết dứt điểm từng bước một và từng vấn đề một, tránh đầu tư nghiên cứu rời rạc, không có chiều sâu hay đầu tư nửa vời; khâu đầu tiên của chăn nuôi là giải quyết vấn đề con giống, kế đến là thức ăn và các vấn đề khác.
Việc chuyển giao công nghệ và tiến bộ đến tay người chăn nuôi phải mang tính lặp lại, quy trình đồng bộ, đảm bảo chương trình/dự án khi kết thúc thì người chăn nuôi vẫn tiếp tục thực hiện và sống được với ngành; xây dựng trung tâm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, thiết lập kênh liên kết chuỗi giá trị, giới thiệu và quảng bá sản phẩm chăn nuôi khu vực.
Phát triển chăn nuôi không chỉ tập trung vào các loài vật cung cấp thực phẩm mà còn có thể phát triển các loài vật khác để giảm mức độ cạnh tranh, nâng cao giá trị sản phẩm chăn nuôi hoặc để phát triển các công nghệ khác (thuốc và biệt dược điều trị cho người, sản phẩm khác ngoài thịt, trứng sữa...).
Các địa phương nên xây dựng Trung tâm nghiên cứu - Chuyển giao khoa học cấp vùng hoặc dựa vào thế mạnh của các trường đang đứng chân trên địa bàn để đặt hàng sản phẩm.
Trong đó, có cam kết hiệu quả và giá trị thương mại hóa sản phẩm khoa học, tránh tình trạng lãng phí nguồn lao động và tài chính.
Đến nay, sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành của địa phương và các địa phương chưa nhịp nhàng và chặt chẽ.
Vì vậy, vai trò của Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ cần phải thể hiện một cách mạnh mẽ và rõ nét hơn để nâng cao tầm vóc, sức mạnh của KHCN trong đổi mới sản xuất, đưa hệ thống chăn nuôi nói riêng và hệ thống nông nghiệp nói chung lên một tầm cao mới.
Có thể bạn quan tâm
Lập trang trại sản xuất atisô theo hướng nông nghiệp công nghệ cao Ngày 10/7, UBND tỉnh Lâm Đồng đã chấp thuận cho Công ty TNHH Trang trại Đa Nhim triển khai dự án trồng cây atisô, sản xuất trà atisô và chiết xuất cao atisô tại xã Đa Nhim (huyện Lạc Dương) trên diện tích 10.370m2 với tổng vốn đầu tư 10 tỷ 356 triệu đồng, thời gian thực hiện là 50 năm.
Xây dựng thương hiệu gạo, hướng đến xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2015, Việt Nam đã xuất khẩu 2,71 triệu tấn gạo, đạt giá trị 1,13 tỷ USD. Trong đó, An Giang xuất 223.700 tấn gạo, tương đương 101 triệu USD, giảm 14,6% về lượng và 11,3% về giá trị so cùng kỳ. Một trong những nguyên nhân khiến xuất khẩu giảm là gạo không có thương hiệu nên xuất ở phân khúc cấp thấp, giá bán dưới giá sàn.
Dù năng suất đạt khả quan hơn so với vụ hè thu năm 2014 nhưng giá thành sản phẩm mùa vụ này lại tăng cao hơn. Nguyên nhân chủ yếu do nắng nóng kéo dài khiến cây lúa phải đối mặt với dịch bệnh, chậm phát triển, người dân phải tốn nhiều chi phí hơn cho đồng ruộng.
Trồng sen lưu động Cứ đến mùa sen, những người trồng sen lưu động lại lang bạt khắp nơi để mưu sinh. Với họ, nghề này không đơn giản để kiếm cái ăn mà còn tiếp nối truyền thống của gia đình tự bao đời nay.
Thăm vùng trồng rau VietGap Ông Nguyễn Văn Phúc - nông dân huyện Đơn Dương (Lâm Đồng), tham gia dự án trồng rau theo quy trình VietGAP của METRO Cash & Carry Vietnam - cho biết: “Sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP giúp sản phẩm được thị trường chấp nhận rộng rãi hơn, từ đó có thể tăng cơ hội bán hàng”.