Quản Lý Nghề Cá: Còn Nhiều Bất Cập

Ngày 13-12, Bộ NN&PTNT tổ chức hội thảo đánh giá kết quả thực hiện dự án quản lý nghề cá (QLNC) ở 8 tỉnh, giai đoạn 2006 - 2011 và xây dựng kế hoạch nhân rộng ra toàn quốc những năm tiếp theo. Thực tiễn cho thấy nghề cá ở nước ta còn nhiều khó khăn: quy mô nhỏ, phân tán, đời sống của ngư dân còn nghèo. Khai thác thủy sản còn nhiều bất cập, dẫn đến nguồn lợi cạn kiệt, môi trường nguồn nước bị suy thoái…
Ông Nguyễn Phú Quốc, đại diện Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản (Bộ NN&PTNT) cho biết, từ năm 2006 - 2011, với sự giúp đỡ của Đại sứ quán Đan Mạch, Bộ NN&PTNT đã triển khai dự án đồng quản lý nghề cá ở 8 tỉnh Thừa Thiên Huế, Nghệ An, An Giang, Quảng Ninh… Việc triển khai dự án này đã đem lại hiệu quả thiết thực trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản, an toàn vệ sinh thực phẩm và đã tác động tích cực đến hiệu quả sản xuất và kinh doanh, nâng cao thu nhập, góp phần cải thiện đời sống cho ngư dân. Tuy nhiên, việc QLNC Việt Nam còn nhiều bất cập như: quy mô nhỏ; ngư dân sống phụ thuộc vào nguồn lợi thủy sản, ngư dân các vùng ven biển sống phụ thuộc vào nghề cá (chiếm 82%); hoạt động ở gần bờ và sử dụng ngư cụ đánh bắt khá đơn giản
Trong khi đó, cường lực đánh bắt tăng nhanh, đến nay cả nước có trên 130.000 tàu thuyền đánh cá, trong đó chủ yếu là tàu thuyền nhỏ loại có công suất dưới 20 mã lực (CV) chiếm trên 50%; loại tàu có công suất lớn đánh bắt xa bờ từ 90 CV trở lên chỉ khoảng 20.000 chiếc (chiếm 15%). Hằng năm sản lượng đánh bắt tăng nhưng năng suất ngày càng giảm. Cụ thể, năm 2000, năng suất đạt 1 tấn/CV nay chỉ còn 0,34 tấn/CV. Sinh kế phụ thuộc chính vào thủy sản, nhận thức của người dân về môi trường, nguồn lợi, sinh trưởng và bảo tồn còn thấp do vậy rất khó QLNC theo cách tiếp cận hệ sinh thái, trong khi đó QLNC theo kiểu truyền thống không phù hợp, không đáp ứng nhu cầu thị trường. Các biện pháp QLNC hiện chưa thực sự có hiệu quả đối với các địa phương dẫn tới sự phát triển nghề cá không bền vững.
Bà Trần Thị Thu Nga, đại diện tỉnh Bến Tre cho biết, từ năm 2006 đến 2011, tỉnh thực hiện QLNC tại xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, nhưng hiệu quả thấp do cơ sở vật chất thiếu thốn. Người dân hầu như chỉ muốn lợi trước mắt và có tư tưởng ỷ lại trông đợi vào sự hỗ trợ bên ngoài. Ngư dân ít có cơ hội tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để phục vụ công việc đánh bắt. Vùng tài nguyên đa dạng, địa hình phức tạp nên việc hình thành các tổ chức đồng quản lý còn lúng túng…
Đại diện Đại sứ quán Đan Mạch bà Nguyễn Thị Thu Hằng, cho biết, hiện nay nghề đánh cá của Việt Nam chủ yếu quy mô nhỏ, đời sống của ngư dân còn quá nghèo nàn nên khi triển khai dự án đồng QLNC ở 8 tỉnh, TP đạt kết quả rất thấp. Nhận thức của ngư dân cũng như chính quyền địa phương về mô hình đồng QLNC còn hạn chế, chưa thấy rõ được những tác hại của việc xâm hại quá mức nguồn lợi thủy sản mà chỉ quan tâm tới thu nhập được bao nhiêu từ nghề này, dẫn tới phát triển không bền vững.
Các đại biểu dự hội thảo đều cho rằng, để áp dụng mô hình đồng QLNC hiệu quả cần sự phối hợp giữa ngư dân và chính quyền địa phương. Để làm tốt các mô hình đồng quản lý thì yếu tố sinh kế, phát triển kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng. Theo đó, giải quyết được việc làm cho ngư dân, ngư dân sẽ tự giác bảo vệ nguồn lợi thủy sản và có sự phối hợp chính quyền trong công tác này. Ngoài ra, ngành nông nghiệp phải tiếp tục bổ sung và cụ thể hóa khung pháp lý chung cho việc áp dụng mô hình đồng QLNC ở Việt Nam. Nhà nước cần hỗ trợ dài hơi cho các mô hình đồng quản lý chứ không chỉ dựa vào kinh phí của dự án trong thời gian có hạn, nếu không việc này chỉ dừng lại ở mô hình thí điểm mà không thể nhân rộng ra toàn quốc.
Phó Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) Hoàng Đình Yên:
Thực hiện đồng QLNC sẽ đem lại những lợi ích to lớn cho cộng đồng ngư dân như: giảm xung đột giữa ngư dân, tăng sản lượng đánh bắt và tăng thu nhập, duy trì và tạo sinh kế bền vững trong nghề cá. Nhưng để triển khai dự án này ra toàn quốc cần phải nâng cao nhận thức của ngư dân về bảo vệ sinh thái môi trường và nguồn lợi thủy sản. Hỗ trợ ngư dân chuyển đổi ngành nghề, giảm áp lực khai thác thủy sản tại các địa phương. Chính quyền địa phương phải nâng cao vai trò và trách nhiệm trong công tác QLNC, khuyến khích và động viên ngư dân tham gia vào các hoạt động hiệu quả để phát triển nghề cá bền vững trong thời gian tới…
Có thể bạn quan tâm

Sáng 17-7, Ban Quản lý dự án “Hợp tác tăng cường phát triển ca cao bền vững” (thuộc Cục Trồng trọt) tổ chức hội thảo “Bài học kinh nghiệm tại Dak Lak và các giải pháp phát triển ca cao bền vững cho khu vực Tây Nguyên” nhằm đánh giá thực trạng phát triển ca cao và truyền thông trong ngành hàng ca cao ở Dak Lak.

Với diện tích 1.613 ha cà phê, trong đó diện tích cà phê kinh doanh là 1.410 ha, nhưng phần lớn đã già cỗi cho năng suất thấp, khiến cho thu nhập của người dân ngày càng giảm.

Trước tình hình thời tiết không thuận lợi kèm theo năm nhuận nên chu kỳ cho trái của một số loại trái cây phục vụ Tết Ất Mùi tại các nhà vườn ở ĐBSCL bị “đảo lộn”, dẫn đến năng suất và chất lượng bị ảnh hưởng, nguy cơ khan hiếm hàng để bán tết là rất cao.

Heo rừng là loài động vật hoang dã nên sức đề kháng tốt, thức ăn dễ tìm; quy trình nuôi, cách chăm sóc cũng không quá khó nên mô hình này ngày càng được nhân rộng ở nhiều địa phương.

Nhà bà Ngoan vừa làm đại lý thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi (TACN) và nuôi 30 lợn lái, 100 lợn thịt, với lợi nhuận mỗi năm 200 triệu đồng. “Hàng ngày, các hộ chăn nuôi trong thôn, trong xã thường phải đi mua TACN, thuốc thú y nên tiện thể tới luôn nhà tôi để trao đổi thông tin và kinh nghiệm làm ăn. Sau hơn 10 năm chăn nuôi, vợ chồng tôi cũng có nhiều kinh nghiệm để trao đổi với bà con” - bà Ngoan cho biết.