Quản Lý Bất Cập, Ngành Chăn Nuôi Tụt Hậu

Trong chăn nuôi, đặc biệt là heo và gia cầm, các tiến bộ khoa học kỹ thuật như con giống, dinh dưỡng, chăm sóc, quản lý có vai trò quan trọng trong việc nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm. Với gia cầm, ngoại trừ cúm H5N1, những yếu tố này đã giúp tạo sự phát triển ổn định những năm qua, đạt năng suất cao. Trái lại, ngành chăn nuôi heo vẫn còn khá lạc hậu về năng suất so với thế giới.
Nghịch lý
PGS-TS Nguyễn Ngọc Hải, Khoa Chăn nuôi - Thú y, Đại học Nông Lâm TPHCM cho biết, theo khuynh hướng thế giới, để ngành chăn nuôi heo phát triển, phải giảm số lượng đàn heo nái nhưng tăng sản lượng thịt heo xuất chuồng. Đáng buồn khi ngành chăn nuôi heo Việt Nam lại là một trong vài nước đi ngược với xu thế đó.
Theo số liệu từ www.genesus.com/05/2013, nếu xét theo số lượng đàn heo nái, trong số 21 nước nuôi heo nhiều nhất thế giới, Việt Nam với 4,4 triệu con (năm 2011) được xếp vào tốp 3 thế giới: sau Trung Quốc (49,2 triệu con) và Mỹ (5,8 triệu con).
Trong khi đó, Philippines đứng thứ 8, CHDCND Triều Tiên đứng thứ 17, lãnh thổ Đài Loan xếp thứ 18. Thế nhưng, nếu căn cứ vào sản lượng thịt heo xuất chuồng, Việt Nam lại đứng thứ 20, sau cả Philippines (thứ 19), CHDCND Triều Tiên (thứ 17), lãnh thổ Đài Loan (thứ 13). Đàn heo nái của Việt Nam tăng từ 4,2 triệu con năm 2009 lên 4,4 triệu con năm 2011 nhưng sản lượng lại giảm từ 537 kg/con vào năm 2009 xuống còn 439 kg/con vào năm 2011.
Nhiều người ngạc nhiên với những con số này, bởi về thiết bị, công nghệ, con giống chăn nuôi Việt Nam không thua kém bất cứ nước nào. Hệ thống chuồng lạnh với ưu điểm điều hòa nhiệt độ phù hợp cho sự phát triển sinh lý đã xuất hiện ở chăn nuôi gia cầm và đàn heo. Từ hệ thống chuồng lạnh cho nhóm heo sinh sản, giờ đây được áp dụng cho đàn heo thịt, nhờ đó góp phần làm tăng năng suất chăn nuôi.
Không chỉ với công ty nước ngoài, ngay cả những nhà đầu tư trong nước cũng đã thiết lập hệ thống chăn nuôi theo kiểu chuỗi trại ở những điểm cách biệt nhằm nâng cao hiệu quả việc cách ly phòng chống dịch bệnh lây lan giữa trại giống sản xuất heo cai sữa, trại cai sữa, trại nuôi thịt, trại nuôi chuẩn bị xuất chuồng…
Không những vậy, đã hình thành hệ thống đàn tiên tiến theo kiểu “cùng vào, cùng ra” giúp nâng cao biện pháp an toàn sinh học, nâng cao hiệu quả kiểm soát dịch bệnh. Con giống, thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi… đa dạng, chất lượng, khẩu phần ăn được xây dựng cho từng giai đoạn nhờ các các lập trình vi tính chính xác.
Các sản phẩm trong chăn nuôi như khoáng hữu cơ, chất acid amin hóa thức ăn, chất chống oxy hóa, chất chống kháng dinh dưỡng… giúp tăng hiệu quả hấp thu chất dinh dưỡng, cải thiện năng suất ngày càng nhiều để nhà chăn nuôi lựa chọn.
Quản lý bất cập
Vì sao những tiến bộ kỹ thuật, thiết bị và công nghệ tiên tiến nhất, kể cả con giống của thế giới được du nhập vào Việt Nam cùng với mô hình quản lý chăn nuôi tiên tiến, sự đa dạng sản phẩm có tính công nghệ cao nhưng lại không phát huy hiệu quả? Tìm ra nguyên nhân để trả lời câu hỏi này góp phần quyết định trong việc giải quyết tình trạng thua lỗ của người chăn nuôi, khi giá thành quá cao. Những người trong ngành cho rằng, hiệu quả chăn nuôi phụ thuộc vào con giống, chuồng trại, phòng chống dịch bệnh, nhưng điều đặc biệt quan trọng chính là trình độ quản lý của con người.
Trước hết cần thấy rằng, con giống nhập nội chất lượng tốt và năng suất cao tiên tiến nhất đòi hỏi điều kiện nuôi, chăm sóc phải tương ứng. Nhưng do còn một phần không nhỏ người chăn nuôi ở dạng nhỏ, lẻ nên yêu cầu này không thể đáp ứng ở các hộ nuôi cá thể. Thậm chí, ngay cả những trại nuôi lớn, nhà chăn nuôi và kỹ thuật viên chưa nắm đầy đủ những yêu cầu trên. Mặt khác, do ngành chăn nuôi heo trong nước phát triển theo kiểu tự phát.
Không ít trang trại có lượng đàn nái lớn, từ vài trăm đến hàng ngàn con, tương ứng quy mô công nghiệp các nước, nhưng lại hình thành trên cái nền chắp vá, nhỏ phát triển dần thành lớn dẫn đến tình trạng số lượng lớn nhưng chuồng trại không đồng bộ, không theo quy chuẩn nào nên gặp khó khăn trong việc vệ sinh, sát trùng chuồng trại, áp dụng các biện pháp an toàn sinh học trong phòng trị, kể cả không thích hợp việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến trong quản lý, chăm sóc đàn.
Từ quy mô nhỏ phát triển thành đàn lớn nhưng trình độ quản lý của nhà chăn nuôi chưa theo kịp với yêu cầu quản lý trại quy mô lớn, không theo kịp những tình huống phát sinh. Do vậy, thay vì xử lý bằng giải pháp triệt để nhưng do hạn chế trình độ nên chỉ ứng phó theo tình huống, kinh nghiệm, thiếu kiến thức chuyên môn cần thiết cho việc quản lý quy mô đàn lớn làm cho tình hình ở trại thêm tồi tệ là điều kiện để dịch bệnh tồn tại và phát triển.
Con giống cao sản, yêu cầu về dinh dưỡng, vệ sinh phòng chống dịch bệnh luôn ở mức cao. Những hạn chế này ảnh hưởng đến sự an toàn, ổn định của từng trại chăn nuôi, dẫn đến hậu quả lớn hơn là ảnh hưởng đến sự tụt hậu của cả ngành chăn nuôi heo cả nước so với thế giới.
Có thể bạn quan tâm

Sinh năm 1983, đến nay anh Đào Trọng Hiệp, xã Thủ Sĩ (Tiên Lữ - Hưng Yên) đã là chủ một trang trại chuyên sản xuất lợn giống và nuôi lợn thịt, tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho mọi người trong gia đình.

Trung tâm Giống Thủy sản An Giang vừa triển khai thành công dự án “Phát triển mô hình sản xuất giống lươn đồng bằng phương pháp sinh sản bán nhân tạo tại An Giang”, do Kỹ sư Triệu Thị Y Vanne làm chủ nhiệm. Tổng kinh phí thực hiện dự án trên 580 triệu đồng, trong đó ngân sách sự nghiệp khoa học hỗ trợ trên 408,6 triệu đồng.

Hơn tuần qua, giá lúa tại nhiều tỉnh ĐBSCL tăng thêm 300 - 400 đ/kg. Tuy nhiên, nhiều nông dân ở Vĩnh Long không vui, bởi phần lớn họ đã bán hết lúa từ trước đó.

Nhiều năm qua, phong trào nuôi cá lóc mùa lũ ở xã Tân Hòa Tây, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang thu được nhiều kết quả khả quan và được bà con nông dân vùng lũ nhân rộng. Mô hình này không cần diện tích rộng, người nuôi tận dụng thức ăn sẵn có trong mùa lũ, chi phí đầu tư thấp, lợi nhuận cao. Đặc biệt, mô hình đã giải quyết công ăn việc làm lúc nông nhàn cho bà con vùng lũ.

Đó là Dự án “Hỗ trợ nâng cao chất lượng phát triển sản xuất lợn giống” tại xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn, do Phòng NN – PTNT huyện triển khai từ năm 2009; giúp gần 200 hộ có con giống, kinh nghiệm nuôi lợn nái để bán giống cũng như phục vụ nhu cầu nuôi lợn thịt của gia đình. Đã có rất nhiều hộ thoát đói nghèo từ Dự án ý nghĩa này.