Phòng Trị Bệnh Chung Cho Tôm

Tôm hiện là một trong những loài thủy sản nuôi nhiều nhất và đem lại lợi nhuận cao cho bà con nông dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công cũng không ít nông dân phải lao đao vì tôm mắc bệnh. Để giúp bà con phòng tránh những hiểm họa trong nuôi tôm, chúng tôi xin giới thiệu một số bệnh và đưa ra cách phòng tránh chung giúp bà con phần nào hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra.
1. Bệnh viêm ruột, xuất huyết đường ruột và hoại tử
Nguyên nhân: Tôm bị nhiễm trùng và thiếu dinh dưỡng, thiếu vitamin C. Ngoài ra cũng có thể do tôm bị ngộ độc khí, kim loại nặng hoặc do các yếu tố môi trường xấu (hàm lượng oxy, nồng độ muối thấp, nhiệt độ nước ao thay đổi đột ngột, trong nước ao nuôi có độc tố do một số tảo tiết ra khi vào ruột tôm làm tấy đỏ thành ruột và ức chế chức năng gan tụy).
Dấu hiệu: Bệnh xảy ra ở tất cả các giai đoạn phát triển từ tôm giống đến trưởng thành làm cho tôm mất khả năng thấm lọc ruột dẫn đến hấp thụ dinh dưỡng kém rồi tử vong. Đối với tôm bị bệnh thường lờ đờ, vỏ có màu xanh nhạt, dưới vỏ có nhiều đốm màu nâu, hơi vàng. Khả năng tiêu hóa của ruột và gan tụy giảm sút nghiêm trọng làm tôm giảm ăn, chậm lớn, dễ bị sốc. Trong ruột tôm có nhiều vi sinh vật tạp khuẩn.
Phòng bệnh: Nên sử dụng chế phẩm sinh học để tăng cường đường tiêu hóa, tạo khả năng cho ruột tôm hấp thụ tốt các chất dinh dưỡng, đồng thời làm sạch đáy ao, giảm thiểu các khí độc và độc tố do môi trường bị ô nhiễm.
Sử dụng chế phẩm ES-22 Imm Build để tăng cường sức đề kháng cho tôm. Đối với tôm thịt ngay sau khi thả post xuống ao nuôi, rắc khoảng 50-100gam ES-22 (ngày 2 lần) lên mặt ao nuôi có diện tích 1.000m2. Từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 4 trộn 200g (0,2%) với 100kg thức ăn để cho tôm ăn hàng ngày. Từ 1tháng tuổi đến khi thu hoạch trộn 100g (0,1%) với 100kg thức ăn để cho tôm ăn hàng ngày.
2. Bệnh phát sáng
Dấu hiệu: Xảy ra ở tất cả các giai đoạn phát triển của tôm. Bệnh này có thể gây ra hiện tượng tôm bị mòn đuôi, cụt râu.
Phòng bệnh: Giữ nền đáy sạch trong suốt quá trình ương nuôi, dùng men vi sinh 3 lần/tháng (loại Actizymen hay loại BRF-2) tăng cường sục khí để tăng oxy hòa tan và đồng đều ôxy giữa các tầng nước, tránh hiện tượng tảo tàn. Có thể dùng đường cát bón xuống ao (1-3ppm) để kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn phát sáng.
Giảm độ mặn nước ao xuống dưới 20%0 có thể giảm sự phát triển của vi khuẩn phát sáng
Dùng BKC phun xuống ao để diệt vi khuẩn phát sáng tồn tại trong ao với nồng độ 0,1-0,5ppm.
3. Bệnh đốm nâu:
Bệnh thường xảy ra sau khi nuôi 2-3 tháng trở đi, trên cơ thể tôm xuất hiện các đốm màu nâu và sau đó chuyển sang màu đen. Khi nhiễm bệnh, thường xuất hiện ăn mòn các phần phụ như đuôi, chân bụng, râu, trên thân tôm.
Tôm bị bệnh sẽ rất yếu, hoạt động chậm chạp, con bị nặng sẽ chết. Tác nhân gây ra bệnh chủ yếu do vi khuẩn Aeromonas.
Phòng trị: Khi tôm bị bệnh thay dần nước ao. Kiểm soát phòng ngừa bênh đốm nâu bao gồm: cải thiện môi trường nuôi thông qua sự chăm sóc, quản lý và đầy đủ dinh dưỡng, đáy ao phải bằng phẳng, tăng cường tác ẩn cho tôm, hạn chế tối đa sự tụ tập của tôm chống hiện tượng ăn thịt lẫn nhau bằng cách cung cấp đầy đủ thức ăn và giữ cho chất lượng nước ao luôn tốt.
4. Bệnh đỏ toàn thân
Nguyên nhân: Có thể do các chất độc từ các vi sinh vật hay do nhiễm vi khuẩn. Cho tôm ăn thức ăn có tạp hôi thối lâu ngày là nguyên nhân gây bệnh. Các vi khuẩn gây độc và gây bệnh này trú ở gần gan tụy của tôm. Các loại tôm đều mắc bệnh này. Bệnh xảy ra ở tất cả các giai đoạn nhưng phổ biến ở tôm giống và tôm trưởng thành.
Bệnh lý được biểu hiện qua những giai đoạn khác nhau, tôm mới nhiễm bệnh có màu vàng hơi xanh, tập tính bình thường. Giai đoạn tiếp theo, tôm trở nên có màu đỏ từ mang, các đầu chân, và sau đến toàn bộ cơ thể. Giai đoạn nặng, sắc tố bình thường của tôm bị mất hoàn toàn. Trên đầu ngực của tôm có nhiều chất dịch nhờn, rất tanh và hôi thối. Gan tụy bị phá hủy và có màu vàng nhợt nhạt không bình thường. Tôm bệnh chết hàng loạt.
Phòng bệnh: Không cho tôm ăn thức ăn tươi sống quá dư thừa. Chuẩn bị ao kỹ trước khi nuôi và quản lý chất lượng nước ao tốt để hạn chế bệnh xảy ra.
Có thể bạn quan tâm

Tôm sú (Penaeus monodon) có khả năng sống trong các môi trường độ mặn, từ 2 phần ngàn (ppt) đến 45 phần ngàn (2-45 ppt). Tuy nhiên, khi nuôi tôm ở độ mặn quá cao hoặc quá thấp thường có nhiều vấn đề hơn là khi nuôi tôm trong khoảng độ mặn tối ưu cho đặc điểm sinh học của tôm sú (tối ưu là từ 15 đến 25 ppt). Nuôi tôm ở độ mặn cao hơn 30 ppt sẽ dễ làm bùng phát dịch bệnh, đặc biệt các bệnh virus đốm trắng, đầu vàng và vi khuẩn phát sáng. Vì vậy, người nuôi tôm có xu hướng nuôi tôm ở môi trường nước lợ hoặc ngọt nhưng khi nuôi tôm ở nước ngọt các vấn đề thường gặp phải là:

Vi khuẩn là tác nhân thường xuyên có mặt trong ao nuôi, cũng có thể gây nhiều bệnh nguy hiểm khác nhau cho các giai đoạn phát triển của tôm. Một số bệnh do vi khuẩn gây ra ở tôm nuôi như: bệnh đứt râu, bệnh cụt đuôi, hoại chi; bệnh đốm đen, đốm nâu, bệnh phát sáng, bệnh vi khuẩn dạng sợi,...

Từ năm 2000 đến nay, ông Châu Ngọc Tòng, nông dân ấp Trà Teo, xã Hòa Đông (huyện Vĩnh Châu, Sóc Trăng), nuôi tôm sú đều đạt hiệu quả kinh tế cao.

Khoa thủy sản Trường đại học Cần Thơ vừa thử nghiệm thành công trong việc pha nước biển nhân tạo để ươm tôm sú giống. Bằng kỹ thuật này, tôm sú giốngcó tỷ lệ nuôi sống cao hơn nuôi trong nước biển tự nhiên.

Không riêng gì Bến Tre, việc nuôi tôm sú công nghiệp ở đâu cũng đòi hỏi các khâu đều phải thực hiện nghiêm ngặt. Theo kỹ sư Lê Văn Bảnh, cán bộ kỹ thuật Trung tâm khuyến ngư tỉnh: "Trong điều kiện như nhau, thì khâu con giống giữ vai trò quyết định dẫn đến thành công hay thất bại".