Phổ Biến 2 Biện Pháp Kỹ Thuật Phòng Trừ Sâu Bệnh Hại Lúa

Viện Lúa Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang phổ biến rộng rãi hai biện pháp kỹ thuật trong sản xuất lúa đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là tiến bộ khoa học kỹ thuật - “gieo sạ đồng loạt, né rầy” và “gieo mạ mùng”.
Quy trình gieo sạ đồng loạt, né rầy là gieo sạ đồng loạt trên diện rộng, mỗi đợt gieo sạ không kéo dài quá 10 ngày; phải gieo sạ trong khoảng thời gian an toàn nhất (là khoảng thời gian không để cho rầy có mang mầm bệnh tiếp xúc với cây lúa non dưới 30 ngày tuổi), khi rầy nâu vào đèn đạt đỉnh cao thì ngâm ủ giống và gieo sạ vào 2 - 3 ngày sau đỉnh cao rầy vào đèn rồi chấm dứt gieo sạ trong vòng 10 ngày sau đó. Việc làm này phải theo lịch thời vụ tại mỗi địa phương. Thời gian gieo sạ không kéo dài quá 2 tháng mỗi vụ. Nông dân phải dành thời gian ít nhất 3 tuần lễ giữa 2 vụ lúa để cày ải phơi đất, cách ly mầm bệnh…
Đối với những vùng đất không có điều kiện gieo sạ trực tiếp mà phải cấy thì áp dụng qui trình kỹ thuật “gieo mạ mùng”.
Kỹ thuật này được thực hiện như sau: để đủ mạ cấy trên 1 ha ruộng, cần chọn 30 kg giống ngâm nước 36 giờ, ủ 36 giờ. Khi giống nẩy mầm tốt thì đem gieo sạ trên sân rộng 100 m2 (sân đất hoặc xi măng đều được). Trước lúc gieo, trải nylon lên bề mặt của sân và lấy đất bùn, mùn xơ dừa, phân DAP đã phơi khô, trộn lẫn (120 kg bùn nhão + 300 kg mùn sơ dừa và 5 kg phân DAP) rải đều trên bề mặt nylon, sau đó gieo lúa giống lên. Sau khi gieo và lấp hạt mạ xong thì giăng mùng ngay. Chỉ cần giăng mùng vào ban đêm và giỡ ra vào mỗi buổi sáng sớm để mạ quang hợp ánh nắng (không bị yếu). Chiều cao của lưới mùng từ 30 đến 50 cm. Mỗi ngày tưới nước từ 1 đến 2 lần. Khi gieo được 13 đến 14 ngày thì đưa mạ ra ruộng cấy. Cây mạ lúc đó hoàn toàn sạch bệnh, có khả năng chống chịu hoàn toàn đối với bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá.
Theo Viện Lúa ĐBSCL, từ năm 2006 đến nay, rầy nâu mang mầm bệnh rất cao và mang cả virus gây bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá. Trong những năm 2006 - 2007 mỗi vụ lúa (Đông Xuân, Hè Thu) rầy nâu gây hại trên dưới 200.000 ha lúa tại ĐBSCL.
Đến năm 2008, biện pháp “gieo sạ đồng loạt, né rầy” và “gieo mạ mùng“ bắt đầu được thực nghiệm trên những cách đồng thực nghiệm, cho kết quả khả quan. Diện tích lúa nhiễm rầy nâu giảm hẳn. Sau đó, hai biện pháp trên được nhân rộng dần ra khắp các tỉnh ĐBSCL. Nhờ hai biện pháp trên và một số biện pháp khác, hiện diện tích lúa bị rầy nâu gây hại mỗi vụ trên toàn vùng giảm đáng kể, chỉ còn vài chục nghìn héc ta.
Có thể bạn quan tâm

Anh Nguyễn Hữu Thành 47 tuổi là nông dân đầu tiên ở thôn Tân Hiệp (Hòa Sơn, Ninh Sơn) ứng dụng máy làm cỏ mía niên vụ 2013- 2014. Máy làm cỏ mía trị giá 28 triệu đồng do Trung tâm Khuyến nông- Khuyến ngư tỉnh hỗ trợ theo chương trình cơ giới hóa đồng ruộng. Trong đó, gia đình anh Thành đóng góp 8 triệu đồng.

Phải khẳng định rằng Thủy sản là một trong những nhóm ngành xuất khẩu chủ lực và là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Tiền Giang. Tuy nhiên, trong giai đoạn kinh tế khó khăn như hiện nay, ngành Thủy sản gặp khó không chỉ ở yếu tố thị trường tiêu thụ bên ngoài mà còn chính ở những yếu tố nội tại trong nước. Vì vậy, việc tái cấu trúc quy trình sản xuất, xuất khẩu đang được đặt ra một cách cấp thiết.

Vụ hè thu năm nay, anh Trần Liền trồng 7 sào dưa lê trên vùng đất cát xã Nhơn Hải. Anh đầu tư chăm sóc chu đáo, đúng kỹ thuật nên cây dưa phát triển tốt, Anh thu hoạch đạt năng suất 2 tấn/sào, bán tại rẫy 5000 đồng/kg, trừ chi phí sản xuất anh còn lãi hơn 8 triệu đồng/sào, cao hơn nhiều loại cây trồng khác. Mỗi năm, anh trồng 2 vụ dưa lê đem lại nguồn thu nhập ổn định bảo đảm cuộc sống gia đình.

Vụ tôm năm nay, anh Phạm Văn Phú, thôn Sơn Hải (Phước Dinh, Thuận Nam) đầu tư 600 triệu đồng nuôi 3 sào tôm thẻ chân trắng theo mô hình trải bạt nổi đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Thực hiện Dự án Hỗ trợ Tam nông, huyện Bác Ái được chọn triển khai tại 9/9 xã trên toàn địa bàn huyện cho 5.423 hộ dân, trong đó có 3.618 hộ nghèo và 570 hộ cận nghèo. Gắn với mục tiêu giảm nghèo bền vững, Bác Ái xác định tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng nâng cao tỷ trọng giá trị trong chăn nuôi và nông sản hàng hóa từ lợi thế sẵn có của địa phương.