Phát Triển Kinh Tế, Nâng Cao Đời Sống Nhân Dân

Phước Kháng là xã miền núi đặc biệt khó khăn của huyện Thuận Bắc, với gần 100% dân số là đồng bào dân tộc Raglai. Trong chiến tranh, nhân dân Phước Kháng đoàn kết, một lòng theo Đảng, đấu tranh bảo vệ quê hương. Phát huy truyền thống đó, cùng với sự quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước, đồng bào dân tộc Raglai ở Phước Kháng hôm nay đang tích cực lao động sản xuất, vươn lên thoát nghèo.
Xã Phước Kháng hiện có 5 thôn, với trên 500 hộ dân và gần 2.400 nhân khẩu. Đồng chí Katơ Đượng, Chủ tịch UBND xã, cho biết: Được sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước, Phước Kháng hôm nay đã có đường bê-tông về tận thôn; 98% số hộ gia đình được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh; 100% bà con được khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế; trường học, trạm y tế được xây dựng khang trang; tỷ lệ huy động học sinh ra lớp đạt 99%...
Những năm gần đây, nhờ tham gia các mô hình phát triển kinh tế do Nhà nước hỗ trợ như trồng rừng theo Đề án 661, mô hình trồng cây trên đất dốc, cấp đất sản xuất cho hộ nghèo… nhân dân Phước Kháng đã thay đổi tập quán sản xuất cũ, mạnh dạn đầu tư mở rộng diện tích các loại cây trồng để ổn định cuộc sống, vươn lên thoát nghèo.
Dẫn chúng tôi lên thăm rừng neem đã gần 6 năm tuổi, ông Chamaléa Doi, thôn Đá Liệt phấn khởi cho biết, năm 2008, gia đình ông được giao trồng mới gần 1 ha rừng neem theo Đề án 661. Được hỗ trợ cây giống, hướng dẫn kỹ thuật trồng và chăm sóc nên tỷ lệ cây sống đạt gần 100%.
Ngoài việc được hỗ trợ gạo hàng tháng từ Đề án 661, gia đình ông Chamaléa Doi còn có 15 gốc xoài ghép và 5 sào điều cũng được Nhà nước hỗ trợ cây giống trồng từ năm 2007 nay đã cho thu hoạch. Con trai ông là Chamaléa Nhân được tạo điều kiện vay vốn xuất khẩu lao động tại Malaysia từ năm 2011, đến nay đã trả hết nợ vay ngân hàng và có tiền gửi tiết kiệm.
Đề án 661 được triển khai tại xã Phước Kháng từ năm 2008, có 272 hộ dân tham gia trồng mới trên 256 ha rừng neem. Diện tích rừng neem trồng mới được bà con chăm sóc, phát triển tốt đã góp phần phủ xanh đất trống, chống xói mòn đất ở địa phương. Cuộc sống các hộ gia đình tham gia đề án cũng từng bước ổn định nhờ số gạo hỗ trợ hàng tháng.
Cùng với Đề án 661, từ năm 2008 đến nay, xã Phước Kháng có 119 hộ nghèo được cấp đất và hỗ trợ kinh phí để sản xuất. Toàn bộ 27 ha đất được cấp, bà con đều trồng mía với thu nhập bình quân mỗi vụ khoảng 2-3 triệu đồng/sào. Đây thật sự là những con số hết sức ý nghĩa đối với đồng bào dân tộc Raglai.
Đề án “Phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả trên đất dốc, triền núi giai đoạn 2011-2015”, được Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thuận Bắc triển khai tại Phước Kháng cũng đang hứa hẹn đưa lại hiệu quả kinh tế cao. Hơn 1 ha cây mít nghệ được triển khai trồng thí điểm hiện đang có dấu hiệu thích nghi tốt, các hộ dân tham gia Đề án rất phấn khởi, tuân thủ đúng quy trình, kỹ thuật trồng và chăm sóc cây.
Cùng với các chương trình, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, nhân dân xã Phước Kháng bước đầu mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học- kỹ thuật, mở rộng các loại giống cây trồng mới để tăng thu nhập, vươn lên thoát nghèo bền vững. Tuy là xã có gần 100% đất đồi núi, thời tiết khắc nghiệt nên việc canh tác hết sức khó khăn nhưng những năm gần đây, bà con đã thực hiện lồng ghép các mô hình và đưa vào sản xuất các loại giống cây trồng phù hợp, kết hợp với chăn nuôi bò, dê, gà…đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Khoe với chúng tôi những buồng chuối mới, thương binh Chamaléa Dôi, thôn Đá Mài Dưới - một trong những hộ dân tham gia mô hình canh tác trên đất dốc do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hỗ trợ từ năm 2007 chia sẻ: Được Nhà nước hỗ trợ cây giống, hướng dẫn kỹ thuật, bà con mình thấy làm gì cũng dễ hơn, cây trồng phát triển tốt, năng suất hơn, có thu nhập ổn định rồi, không còn sợ đói, sợ nghèo mãi.
Đồng chí Kator Đượng, cho biết thêm: Hiện nay, xã còn 32,47% hộ nghèo. Để phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo, nâng cao đời sống nhân dân đặc biệt là thay đổi nhận thức của một số hộ dân còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước, thời gian tới, UBND xã Phước Kháng tiếp tục tập trung thực hiện và nhân rộng các mô hình phát triển kinh tế hiệu quả; vận động, hướng dẫn bà con tận dụng các vùng đất gò đồi, dưới tán cây để chăn nuôi gia súc, gia cầm, giúp tăng thu nhập, ổn định cuộc sống.
Có thể bạn quan tâm

Năm năm qua, ngoài việc sử dụng khí biogas để làm nguồn thắp sáng, nấu ăn, ông Đoàn Văn Lập ở thôn 3, xã Xuân Phú (Huyện Ea kar, Đắk Lắk) đã tận dụng nước thải biogas để tưới tiêu cho vườn tiêu, không cần sử dụng phân bón nhưng tiêu vẫn phát triển tốt và cho năng suất cao.

Trao đổi với báo giới vào chiều 27-11 tại Hà Nội trước thềm hội nghị về đột phá giống góp phần thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp Việt Nam, ông Phạm Anh Tuấn, Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, khẳng định, sau khi vượt qua khó khăn, ngành thủy sản đang tiến tới xác lập những kỷ lục về kim ngạch xuất khẩu trong năm 2014.

Năm 2004, Công ty DONA (ở Đồng Nai) hợp tác với Công ty Cà phê Phước An trồng xen canh 121 cây sầu riêng giống DONA-SR1 của Thái Lan vào vườn cà phê theo mật độ: cây cách cây 9 mét và hàng cách hàng 9 mét. Sau 1 năm, công ty bán lại với giá 100.000 đồng/cây.

Với địa hình thấp trũng, vào mùa mưa việc nuôi trồng thủy sản ở TT-Huế, nhất là các địa phương vùng đầm phá gặp nhiều khó khăn, bởi địa hình thấp, khi nước dâng cao, các loại thủy hải sản tràn ra ngoài, gây thất thoát lớn.Từ kinh nghiệm thực tiễn, bà con nuôi trồng ở xã Quảng Công, huyện Quảng Điền đã đầu tư cải tạo ao hồ, đắp đê cao và mạnh dạn nuôi trồng trong mùa mưa, mang lại nguồn thu nhập đáng kể.

Đây là nhà máy chế biến tôm đầu tiên và duy nhất hiện nay ở Việt Nam được xây dựng ngay trong khu nuôi tôm công nghiệp của công ty. Vì vậy, Công ty đã có được nguồn nguyên liệu tươi sống, sạch và ổn định để chế biến các sản phẩm tôm giá trị cao. Đối tác chiến lược là tập đoàn Mitsubishi của Nhật Bản đã tiêu thụ 100% sản phẩm tôm của công ty.