Phân Hữu Cơ Rất Cần Thiết Cho Cây Có Múi

Phân hữu cơ giữ vai trò quan trọng trong canh tác cây có múi, bởi đây là thành phần giúp cải thiện đặc tính hóa lý của đất, giúp cho cây trồng phát triển tốt, tăng năng suất và ổn định chất lượng. Những năm gần đây, phần lớn nhà vườn ở huyện Lai Vung (Đồng Tháp) đã chủ động đưa phân hữu cơ vào phục vụ sản xuất, không còn lệ thuộc vào phân hóa học như trước. Đây là một tín hiệu vui để tỉnh từng bước tiến đến nền nông nghiệp sản xuất bền vững.
Thời gian trước, nhà vườn ở huyện Lai Vung gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý diện tích vườn bị già cỗi. Nhiều diện tích vườn phải đốn bỏ do năng suất kém mà nguyên nhân chủ yếu do tình trạng nghèo kiệt chất hữu cơ trong đất.
Tuy nhiên, sau 10 năm, kể từ khi dự án vườn quýt hồng kiểu mẫu do Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư tỉnh thực hiện trên 100ha ở xã Long Hậu, đến nay ý thức của người dân đối với việc sử dụng phân hữu cơ trong sản xuất cây có múi dần được cải thiện và nâng lên rõ rệt. Nhà vườn không còn lạm dụng phân hữu cơ cũng như thuốc bảo vệ thực vật như trước đây.
Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) huyện Lai Vung, hiện nay phần lớn nhà vườn ở huyện đều sử dụng phân hữu cơ trong sản xuất cây có múi. Anh Nguyễn Hữu Hạnh, một nhà vườn trồng cam xoàn ở xã Tân Hòa, huyện Lai Vung cho biết: “Đã trồng cây có múi thì bắt buộc phải sử dụng phân hữu cơ.
Bên cạnh giúp tăng độ phì cho đất, làm cho đất tơi xốp, tăng khả năng giữ nước, giúp thúc đẩy hệ vi sinh vật có lợi trong đất phát triển thì phân hữu cơ còn giúp tăng tuổi thọ và sức bền cho cây. Sau nhiều năm sử dụng phân hữu cơ, tôi nhận thấy kích cỡ trái rất đồng đều, màu sắc trái khi thu hoạch cũng sáng và đẹp hơn”.
Thông thường nhà vườn sử dụng 2 loại phân hữu cơ chính là phân hữu cơ dạng tinh chế và phân hữu cơ dạng tự hoai ủ từ phân chuồng hoặc xác thực vật. Tuy nhiên, hiện nay trên thị trường xuất hiện nhiều loại phân hữu cơ dạng tinh chế kém chất lượng, gây không ít khó khăn và hoang mang cho người sử dụng.
Anh Lưu Văn Tín, Giám đốc Hợp tác xã quýt hồng Lai Vung cho biết: “Hiện nay, trên thị trường có nhiều loại phân hữu cơ nhưng chất lượng sản phẩm không đồng đều, nhiều sản phẩm kém chất lượng, giá lại đắt. Đặc biệt, hầu hết các loại phân hữu cơ trên thị trường hiện nay đều không được niêm yết giá gốc trên bao bì nên nhà vườn gặp khó trong vấn đề lựa chọn loại phân bón phù hợp, chất lượng”.
Theo ông Huỳnh Văn Tồn, Phó trưởng Phòng NN&PTNT huyện Lai Vung, sử dụng phân hữu cơ trong trồng trọt là một giải pháp tối ưu để tiến đến một nền nông nghiệp sản xuất bền vững. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, nhà vườn cần có những hiểu biết về đặc tính cây trồng và sử dụng phân bón vào từng giai đoạn phù hợp.
Khi sử dụng phân hữu cơ dạng tinh chế, nhà vườn cần chọn mua các sản phẩm có uy tín và xuất xứ rõ ràng. Đối với sử dụng phân chuồng hoặc xác thực vật bón cho cây trồng, nhà vườn cần hoai ủ và nên tưới thêm nấm Trichoderma để ức chế sự phát triển của nấm bệnh trong đất, đồng thời giúp quá trình phần hủy được diễn ra nhanh hơn.
Có thể bạn quan tâm

Trà Cú (Trà Vinh) là huyện có diện tích đất đồng láng tương đối nhiều, trên 1.200ha nằm trên địa bàn các xã Đôn Châu, Đôn Xuân và một phần của xã Đại An…. Do đặc điểm của vùng đồng láng là điều kiện giao thông khó khăn và cơ sở hạ tầng phục vụ cho thủy sản chưa được đầu tư nhiều, nên việc phát triển nuôi tôm (sú và thẻ) theo hình thức công nghiệp (thâm canh và bán thâm canh) còn rất ít, chủ yếu là nuôi quảng canh (thả lan) chiếm trên 90% diện tích.

Cá lăng chấm được xem là loài cá có giá trị kinh tế cao và là đặc sản nước ngọt hàng đầu ở miền Bắc. Loài cá quý hiếm hoang dã này vốn chỉ sống ở hệ thống sông Hồng nay đã được nuôi thử nghiệm thành công ở Quảng Ninh.

Huyện Đông Hải (Bạc Liêu) triển khai xây dựng thành công mô hình cánh đồng tôm nguyên liệu mẫu lớn tại ấp Thạnh I, xã Long Điền với tổng diện tích 37ha.

Khoảng 7 giờ sáng 25-6, người dân trong hẻm 112 Chi Lăng (phường 12, TP. Vũng Tàu) phát hiện một con cá heo nặng khoảng 70kg, dài hơn 1m mắc kẹt ở con lạch sát khu Đồi Nhái và họ đã dìu con cá này vào vũng nước trong bờ.

Từ đầu năm 2015 đến nay, do tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, bệnh trên tôm thường xuyên xảy ra, mầm bệnh trong tự nhiên khá cao, trên 40% số mẫu nên thả nuôi tôm rất chậm. Đến nay, tổng diện tích thả giống chỉ được 4.000ha, trong đó tôm sú 458ha, tôm thẻ chân trắng 3.532ha, chỉ đạt 61% kế hoạch năm. Diện tích bị thiệt hại lên đến 834ha, chiếm 21% tổng diện tích thả nuôi.