Nuôi Trăn Lấy Da Xuất Khẩu

Vạn sự khởi đầu nan
Sau nhiều năm lặn lội trong nghề, anh Thái đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, nhất là kỹ thuật chăm sóc và cho trăn sinh sản. Đối với anh, trăn là con vật rất hiền, dễ gần gũi và dễ nuôi. Từ ý tưởng và sở thích riêng tư, anh bắt đầu thử nghiệm bằng 50 con trăn con. Sau nhiều đợt xuất chuồng, lần nào cũng “xuôi chèo mát mái”, anh liền mạnh dạn tăng đàn và dốc hết tâm huyết vào việc nuôi trăn.
Anh Thái từ từ bước vào nghề nuôi trăn, bình tĩnh vượt qua những chặng đường khó khăn. Nhớ lại những năm đầu 1990, khắp nơi ĐBSCL ồ ạt nuôi trăn mà chỉ riêng Hậu Giang thôi cũng có tới hàng trăm hộ nuôi với qui mô lớn, trong khi thị trường tiêu thụ lại quá hẹp, giá cả tuột dốc thê thảm, con giống từ chỗ 120.000đ/con xuống còn 2.000đ mà chẳng ai mua, có người phải mang trăn con vô rừng thả, còn trăn mẹ mỗi con cả lượng vàng, đến lúc bán ra chỉ còn 1 chỉ.
Trước tình hình khủng hoảng đó, nhiều người sinh ra chán nản, chuyển sang nuôi cá, nuôi tôm hoặc gia cầm. Riêng anh và một số bạn bè vẫn tiếp tục đẩy mạnh sản xuất. Anh tin chắc rằng con trăn sẽ tìm được hướng đi trên thị trường thế giới, đặc biệt là da trăn, một trong những loại sản phẩm cao cấp có giá trị kinh tế cao. Đúng như dự đoán của anh, năm 2001 những người nuôi trăn đã phấn khởi tìm được thị trường ở Ý, Trung Quốc, Nhật… Bản thân anh đã chủ động tìm cách hợp tác liên doanh với các cơ sở xuất khẩu để tăng cường sức cạnh tranh, cụ thể như Công ty da Tây Đô và một số công ty xuất khẩu khác.
Bí quyết thành công
Theo anh, muốn nuôi trăn thành công trước hết phải có quyết tâm cao và chịu khó học hỏi nghề. Nếu không nắm vững kỹ thuật, tỉ lệ thành công rất thấp. Với anh, từ việc làm chuồng trại, chọn con giống, mua thức ăn cho đến nuôi trăn đẻ… anh thông thạo như một chuyên gia. Anh nói: khâu quan trọng nhất trong quá trình nuôi trăn là sản phẩm và đầu ra. Muốn có sản phẩm tốt phải nuôi đúng kỹ thuật và đúng bài bản. Muốn đầu ra ổn định phải nghĩ đến hợp đồng xuất khẩu.
Hôm đến thăm anh, thấy thợ thầy rất bận rộn, người căng da trăn, kẻ tháo da. Sau một hồi thăm hỏi, anh đã mời chúng tôi đi tham quan trại và giới thiệu nhiều con trăn đủ loại, đủ cỡ đang cuộn tròn trong những chiếc lồng thật đúng qui cách.
Anh Thai cho biết việc đầu tư nuôi trăn không lớn lắm, bình quân một cái chuồng bằng cây tạp chỉ tốn khoảng 150.000 đồng. Thức ăn giành cho trăn gồm chuột, gà, vịt hoặc giò gà giò vịt. Thông thường trăn thích ăn thịt sống nhưng anh đã tập cho nó ăn vật chết ngay từ lúc trăn còn nhỏ nên rất dễ nuôi. Điều quan trọng là người nuôi phải biết theo dõi thời tiết biến đổi bất thường để đề phòng bệnh cho trăn, nhất là bệnh sổ mũi và đẹn (lở miệng). Anh Thai cho biết mùa giao phối của trăn diễn ra hằng năm từ tháng 10 – 12 ÂL và đẻ từ đầu tháng 2 đến cuối tháng 4. Trứng trăn ấp đúng 58 ngày sẽ nở. Với bàn tay vàng của mình, anh chỉ cần nhìn hoặc nâng niu những chú trăn con và trăn mẹ cũng có thể biết được tình trạng sức khỏe của chúng để kịp thời xử lý và giúp chúng mau lớn, đặc biệt là sau mỗi lần lột da, trăn ăn mạnh và lớn rất nhanh.
Anh khẳng định, ở vùng Bảy Núi - An Giang nuôi trăn rất phù hợp và mang đến lợi nhuận cao nhất, bởi vì người nuôi sẽ ít rủi ro so với nuôi bò, heo, gà vịt hoặc cá và không gây ảnh hưởng lớn đến môi trường. Ngoài ra nuôi trăn cũng không đòi hỏi phải có mặt bằng lớn. Nguyện vọng của anh là được các ngành chuyên môn hỗ trợ kỹ thuật và cung cấp thông tin thị trường, đồng thời hỗ trợ sản xuất để giúp bà con nuôi trăn có được những hợp đồng sản xuất ổn định và lâu dài.
Trại của anh hiện có 1.700 con trăn, trong đó có 600 con bố mẹ, con lớn nhất khoảng 70 kí, gồm hai loại: trăn vàng và trăn đất. Người Nhật rất thích da trăn vàng nhờ hoa văn vàng, đẹp và sáng. Trong quá trình khai thác, thợ lột da trăn phải hết sức cẩn thận, vết cắt thật khéo léo, nhẹ nhàng và thành thạo, chính xác, không được làm cho da trầy xước. Lột xong phải có người căng da trên một tấm ván có chiều dài tương đương với chiều dài của da trăn. Sau khi khô, da trăn được cuốn hoặc xếp lại chờ giao hàng. Theo hợp đồng, da trăn được chia làm ba loại I, II và III tùy theo kích thước (size). Ngoài tiền bán da trăn ra, người nuôi còn bán được thịt trăn (20.000 – 30.000đ/kg) và mỡ trăn, mật trăn cho người tiêu dùng.
Với số lượng trăn bố mẹ dồi dào như thế nên mỗi vụ trại đã sản xuất trên vài ngàn con trăn giống bảo đảm chất lượng. Từ công việc làm ăn thuận lợi, anh Thai đã liên kết với nhiều trại chăn nuôi và các hộ nuôi gia đình trong khu vực để hợp đồng cung ứng con giống và thu mua lại trăn thịt, trăn lấy da với giá cả hợp lý, giúp cho người nuôi phấn khởi. Hiện nay, bình quân mỗi năm anh xuất đi khoảng 3.000 tấm da trăn đủ loại tùy theo hợp đồng hằng năm. Ngoài ra anh còn một đàn cá sấu trên 200 con, mỗi năm sinh sản trên 400 con.
Có thể bạn quan tâm

Năm 2012 là năm huyện Đầm Dơi gặp rất nhiều khó khăn trong lĩnh vực nuôi thuỷ sản. Người dân và doanh nghiệp phải đối mặt với giá cả vật tư tăng cao, dịch bệnh hoành hành, tư thương ép giá… Tuy nhiên, chính quyền các cấp ở Đầm Dơi luôn đồng hành, nỗ lực vượt khó cùng người dân.

Một số nông dân thuộc Tổ hợp tác sản xuất ấp 7 xã Vị Thắng, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang. Bởi giờ họ đã thay hoa bằng trồng dưa hấu, vừa có lợi về môi trường, vừa có tiền rủng rỉnh bỏ túi.

Cây cỏ ngọt xuất hiện trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời gian gần đây đã và đang được người nông dân ở các địa phương như Yên Thành, Quỳnh Lưu, Hưng Nguyên, Nam Đàn,... đưa vào sản xuất trở thành loại nông sản có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh đó, công thức luân canh đưa cây ớt vào trồng giữa 2 vụ cỏ ngọt không chỉ về việc cải tạo đất mà đã mang lại hiệu quả kinh tế khá cao.

Trong khi hàng triệu chủ hộ chăn nuôi trong cả nước đang khốn đốn vì giá heo, gia cầm liên tục giảm mạnh suốt nhiều tháng qua thì theo số liệu Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vừa công bố, giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm và nguyên liệu trong tháng 5/2013 ước đạt 236.000 tấn, đưa tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này trong 5 tháng đầu năm 2013 đạt 1,15 tỷ USD, tăng 40,6 % so cùng kỳ năm trước.

Tôm càng xanh là một trong những đối tượng nuôi chủ lực sau cá tra, tôm sú và tôm thẻ chân trắng ở ĐBSCL. Nuôi tôm càng xanh trên ruộng lúa được xem là mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao. Song, nguồn tôm giống chất lượng để phục vụ yêu cầu mở rộng diện tích nuôi vẫn chưa đảm bảo.