Nuôi Tôm Trong Vùng Rừng Ngập Mặn (Rừng Đước)

1. Chuẩn bị ao nuôi:
Đất rừng đước là đất bãi bồi được hình thành với quá trình phân hủy yếm khí của hệ sinh thái rừng ngập kéo dài nhiều năm. Quá trình này tạo nên kết cấu đất thiếu ổn định chứa một hàm lượng lớn vật chất hữu cơ, do đó nước dễ bị thấm qua các bờ ao làm mất nước và có thể thấm nước từ ngoài vào khi triều cường. Điều này ảnh hưởng nhiều đến quá trình sinh trưởng và phát triển của tôm trong ao nuôi, ảnh hưởng lớn đến quá trình phát sinh và lây lan bệnh trong vùng nuôi tôm.
2. Cải tạo ao nuôi.
Tháo cạn đồng loạt các ao nuôi vào thời điểm con nước kém để phơi đáy ao bằng cách:
- Hút cạn nước trong ao nuôi bằng máy bơm nước.
- San bằng phẳng đáy ao, tu sửa, gia cố bờ ao, cống bọng.
- Dùng với bột ( CaCO3 ) rải đều khắp ao, liều lượng 14 kg/100m2.
- Tiếp tục phơi ao 2 ngày, sau đó rửa bỏ hết nước vôi và bắt đầu lấy nước vào, tiến hành xử lý nước ngay trong ao nuôi bằng Chlorine (30ppm).
- Sau 4 ngày xử lý Chlorine bón DAP (1kg/1000m2) để gây màu nước.
- Khi độ trong đạt được 40-50 cm thì có thể thả tôm post.
3. Chuẩn bị ao lắng.
- Qúa trình cải tạo và chuẩn bị ao chứa được tiến hành tương tự như ở ao nuôi.
- Qúa trình xử lý Chlorine ao chứa lần đầu cùng lúc với quá trình xử lý trong ao nuôi nhằm khống chế mầm bệnh ngay từ ban đầu không cho lây lan vào ao nuôi.
4. Quan trắc các chỉ tiêu thủy hóa hàng ngày.
Độ trong: Độ trong thích hợp nhất trong ao nuôi là 30-40 cm.
pH nước ao nuôi: Bón vôi một cách hợp lý mà pH ở đầu vụ nuôi có trị số rất lý tưởng (7,5-8,5)
Oxy hòa tan: Tăng quạt nước, thay nước cải thiện môi trường để đảm bảo đủ lượng oxy hoà tan
Nhiệt độ nước ao nuôi: Nhiệt độ dao động trong khoảng 29-32 C là tốt nhất. Có thể điều chỉnh nhiệt độ bằng cách thay đổi mực nước ao nuôi lên đạt độ cao thích hợp (1,0-1,2 m)
Độ sâu mực nước: Mực nước trung bình dao động 85-95 cm. Vào những mưa to kéo dài thì mực nước lên đến 100-110 cm. Đo mực nuớc để có sự điều chỉnh thích hợp.
5. Quan trắc các chỉ tiêu thủy hóa định kỳ.
Độ mặn: Độ mặn giảm làm tôm đóng rong và mềm vỏ. Giữ độ mặn 15-20 phần ngàn là lý tưởng nhất.
Tảo: Theo nhiều tài liệu, tảo silic (làm cho nước có màu vàng nâu) là tảo có lợi cho tôm.
Có thể bạn quan tâm

Bệnh phân trắng là một trong những bệnh gây thiệt hại cho nghề nuôi tôm trong những năm gần đây, việc phòng trị bệnh chưa có hiệu quả là do đa số bà con nuôi tôm chưa xác định đúng nguyên nhân

Tôm giống tốt là yếu tố rất quan trọng để đạt năng suất cao trong khi nuôi và phòng tránh được các loại bệnh gây ra cho tôm.

Ở tôm sú, bệnh thường hay gặp nhất, khó ngăn ngừa và điều trị là bệnh thân đỏ đốm trắng. Theo các công trình nghiên cứu, tất cả các giai đoạn phát triển của tôm đều có thể nhiễm bệnh này. Giai đoạn phát triển mạnh nhất là từ tháng nuôi đầu tiên đến tháng nuôi thứ hai trong ao nuôi tôm thịt. Gây bệnh đốm trắng ở tôm sú do một loại virus có tên khoa học Systemic Ectodermal and Mesodorma Baculoviras (SEMBV). Virus này nhiễm cảm ở một số mô của nhiều cơ quan khác nhau có nguồn gốc trung bì và ngoại bì như: mang, lớp biểu bì mô của vỏ, thần kinh, dạ dày và một số cơ quan khác trên con tôm. Trên thực tế, dù có phương pháp ngăn ngừa tốt như thế nào thì điều kiện tôm bị virus SEMBV vẫn tồn tại, đôi lúc người nuôi điều trị bằng thuốc và hóa chất cũng không ổn. Bởi vậy, việc có thể làm là ngăn chặn, tránh lây lan từ ao nuôi này sang ao nuôi khác.

Vào hè, thời tiết diễn biến bất lợi, nắng nóng kéo dài nên dễ phát sinh dịch bệnh trong môi trường ao nuôi tôm. Việc quản lý và điều khiển các yếu tố môi trường cho phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của tôm sẽ góp phần ngăn chặn dịch bệnh phát sinh. 2Lúa xin giới thiệu đến bà con một số biện pháp kỹ thuật khi quản lý môi trường ao nuôi

Quản lý việc cho tôm ăn thật chặt chẽ, khi tôm bệnh khả năng bắt mồi giảm do vậy việc cho ăn phải hết sức thận trọng, tránh dư thừa thức ăn dễ dẫn đến vấn đề thêm nghiêm trọng.