Trang chủ / Hải sản / Tôm thẻ chân trắng

Nuôi tôm càng sông trong ao

Nuôi tôm càng sông trong ao
Ngày đăng: 14/05/2015

Giá trị thực phẩm

Tôm càng sông (tôm chà) là thực phẩm phổ biến nhất, được bán quanh năm ở các chợ nông thôn cũng như thành thị dưới dạng tôm tươi, tôm khô. Thịt tôm mềm, thơm ngon, vị ngọt, tính lành và giàu canxi, có thể chế biến thành nhiều món ưa thích. Ngoài sự có mặt trong những món ăn thường ngày, tôm còn là một đặc sản (bánh tôm Hồ Tây) khó quên với du khách đến Hà Nội. Hiện, tôm tự nhiên được bán ở các chợ với giá 80.000 - 120.000 đồng/kg, tương đương với giá bán 3 - 4 cá kg rô phi.

Nước ta, diện tích ao hồ nhỏ lẻ rất lớn; khi tôm tự nhiên đang ngày càng cạn kiệt, giá thức ăn công nghiệp tăng cao, giá cá hạ, người nuôi không có lãi thì việc nuôi tôm càng sông bằng thức ăn rẻ tiền là một hướng đi mới phù hợp.

Đặc điểm sinh học

Tôm càng sông thuộc giống tôm càng nước ngọt (cùng tôm riu, tôm càng xanh). Tôm có hình dáng tương tự như tôm càng xanh nhưng kích cỡ bé hơn, màu sắc cơ thể và đôi càng thường có màu vàng hoặc sẫm. Khi nhỏ, tôm càng sông và tôm riu cùng cỡ vẫn phân biệt được, vì tôm càng sông cơ thể dài và chân bò phát triển hơn.

Ở nước ta, tôm phân bố hầu hết ở các ao hồ nước ngọt và nước lợ có độ muối thấp. Chúng thành thục và sinh sản sau 5 - 6 tháng, cơ thể dài 5 - 9 cm, trọng lượng 10 - 15 gam/con (80 - 100 con/kg), con đực có 2 càng phát triển và kích thước lớn hơn con cái. Tôm giao vĩ và sinh sản tự nhiên suốt mùa hè tại miền Bắc và sinh sản quanh năm ở miền Nam. Tôm cái sinh sản mỗi lần 1.600 - 2.000 trứng, khoảng cách giữa 2 lần đẻ 15 - 20 ngày. Khi tôm đẻ xong, trứng được giữ ở chân bơi dưới bụng, nở thành ấu trùng sau 10 - 15 ngày, sau đó ấu trùng rời mẹ, sống độc lập và phát triển qua các lần lột xác.

Tôm thường kiếm ăn ban đêm ở tầng đáy; thức ăn là nguyên sinh động vật, giun, giáp xác nhỏ, ấu trùng, côn trùng, mảnh vụn thức ăn, mùn bã hữu cơ. Khi kiếm mồi, chúng có tính tranh giành thức ăn cao và có thể ăn thịt lẫn nhau khi đói.

Chuẩn bị ao nuôi

Ao được tẩy dọn sạch, vét bớt bùn, diệt tạp kỹ, tránh cá dữ còn sót lại. Rải vôi 8 - 12 kg/100 m2, đầm nén kỹ bờ ao, phát quang bờ bụi và lắp cống cấp, thoát nước. Diện tích nuôi có thể từ vài chục đến hàng nghìn m2, diện tích thích hợp để nuôi 500 - 2.000 m2. Bón phân chuồng ủ mục, liều lượng 20 - 30 kg/100 m2, phân xanh 30 - 40 kg/100 m2. Phân chuồng rải đều khắp mặt ao, phân xanh bó lại dìm ở góc ao. Nước lấy vào ao qua lưới lọc, độ sâu 1 m trở lên.

Giống thả

Có thể mua giống nhỏ hoặc tôm bố mẹ từ người đi khai thác hoặc các ao nuôi cá. Nếu tôm giống có thể thả 2 kg/100 m2; nếu tôm bố mẹ, thả 1 kg/100 m2, cần chọn nhiều tôm cái (càng nhỏ). Tôm khỏe mạnh và có đủ các bộ phận chân, càng, râu, chủy… Thả tôm sau khi lấy nước vào ao 7 - 10 ngày, nên thả lúc trời mát.

Thức ăn cho tôm

Dùng các loại bột ngũ cốc (cám gạo, ngô, khoai, đậu tương, sắn) và bột cá để phối trộn thức ăn, đảm bảo hàm lượng đạm 20% trở lên. Thức ăn nên nấu chín để tăng sự hấp thụ của tôm. Tôm cần nhiều canxi để lột xác, nên trong thức ăn cần duy trì lượng bột cá hoặc bột khoáng 10 - 12%. Có thể dùng cám công nghiệp cho tôm ăn, nếu có điều kiện kinh tế.

Đối với tôm giống (1.000 - 2.000 con/kg), cho tôm ăn hằng ngày lượng thức ăn 5 - 7% tổng trọng lượng tôm, nếu thả tôm bố mẹ thì cho ăn hằng ngày 3 - 4%, nên cho ăn buổi sáng và chiều tối.

Chăm sóc, quản lý

Cứ 500 m2 ao nên lắp một máy phun mưa để tăng ôxy trong nước. Từ tháng thứ hai có thể cho máy hoạt động từ nửa đêm đến sáng.

Định kỳ 15 - 20 ngày bón phân chuồng và phân xanh xuống ao với lượng như lúc cải tạo; vớt bỏ cành, cọng phân xanh sau khi ngâm. Kiểm tra sức ăn của tôm bằng vó, nhá để cung cấp đủ thức ăn cho tôm; tránh hiện tượng tôm đói, ăn thịt lẫn nhau.

Hằng tháng cấp nước vào ao nuôi 5 - 10% để kích thích tôm bắt mồi. Kiểm tra và điều chỉnh pH 7 - 7,5 bằng vôi và mật đường.

Tôm bố mẹ sau khi thả 15 - 30 ngày, tôm giống sau 4 - 5 tháng thì bắt đầu sinh sản. Khi tôm sinh sản nhiều, nước trong ao sẽ có mùi tanh. Nên thả thêm cá mè trắng giống vào ao, mật độ 2 - 3 m2/con, để giảm bớt tảo. Dùng vôi bột liều lượng 2 - 3 kg/100 m2 hòa loãng té đều trên mặt ao để khử trùng nước, định kỳ hàng tháng.

Thu hoạch

Sau 5 - 6 tháng nuôi có thể thu tỉa tôm; dùng rọ, đó kích thước lớn, nan thưa, bỏ mồi nhử để thu tôm. Nên thu vào ngày tối trời, trước khi thu cần cho tôm nhịn ăn 1 ngày. Chỉ thu tôm đạt kích cỡ thương phẩm 10 - 15 g/con, nên thả lại ao những con tôm cái ôm trứng, để tái tạo đàn. Không dùng lưới vét để thu vì sẽ gây stress cho tôm. Mỗi lần thu hoạch 1 - 2 kg/100 m2, thu 2 - 3 lần/tháng, cần lựa thời điểm để thu tôm bán được giá cao.

Hiệu quả khi nuôi

Với cách nuôi như trên sẽ luôn có tôm thịt bán mà không phải thả giống lần sau. Loại hình này có thể đạt năng suất 2,5 - 3 tấn/ha/năm, tạo lợi nhuận 180 - 200 triệu đồng. Mô hình nuôi này đang được triển khai hiệu quả tại nhiều hộ dân các tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam.

Tags: nuoi tom cang song, nuoi tom, ao nuoi tom


Có thể bạn quan tâm

Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P2) Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P2)

Ao nuôi trồng thủy sản là một hệ thống năng động thể hiện sự biến động liên tục và liên tục. Ao nuôi trồng thường trải qua nhiều thay đổi cả về hóa học lẫn các biến đổi vật lý. Sự trao đổi khí trong khí quyển bao gồm oxy (O2), nitơ (N2) và carbon dioxide (CO2) với nước trong ao rất quan trọng đối với quá trình trao đổi chất của cá và quang hợp của thực vật.

23/09/2014
Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P3) Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P3)

Ôxy trong khí quyển vượt qua ranh giới mặt nước và không khí sau đó hòa tan vào nước. Cách duy nhất để đưa ôxy vào nước đó chính là khuếch tán. Trong không khí, ôxy chiếm một số lượng lớn, khi không khí được khuếch tán vào nước trong ao, nước trong ao được bão hòa với ôxy còn gọi là ôxy hòa tan.

25/09/2014
Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P4) Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P4)

Đây là một chỉ số hóa học quan trọng cần được lưu ý vì nó ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất và các quá trình sinh lý khác của các sinh vật trong ao. Một phạm vi nhất định của độ pH (pH 6.8 – 8.7) cần được duy trì để đạt được sự phát triển và sản xuất mong muốn.

26/09/2014
Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P5) Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P5)

Amoniac là khí quan trọng thứ hai trong nuôi cá; ý nghĩa của nó đối với sản xuất cá chất lượng tốt là nổi bật. Nồng độ amoniac cao có thể phát sinh từ cho ăn quá mức, giàu protein, thức ăn dư thừa phân hủy và giải phóng khí amoniac độc hại, trong đó kết hợp với cá trong ao hồ, ammonia thải ra có thể tích lũy đến mức nguy hiểm cao trong điều kiện nhất định.

29/09/2014
Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P6) Chất Lượng Nước Và Quản Lý Chất Lượng Nước Trong Nuôi Trồng Thủy Sản (P6)

Nếu xảy ra trường hợp xấu, các thông số này có thể giúp đỡ trong việc chẩn đoán, nhờ đó chúng ta có thể đưa ra biện pháp khắc phục. Từng thông số riêng lẻ thường không chẩn đoán được gì, nhưng nhiều thông số gộp lại sẽ là các chỉ số thể hiện các quá trình đang xảy ra trong ao hồ.

03/10/2014