Nuôi Ngao, Nuôi Nghêu

Ngao và nghêu là anh em họ hàng với nhau. Nó đều là loài nhuyễn thể, có hình dáng giống nhau. Ngao chủ yếu phân bố ở phía Bắc còn nghêu thì ở phía Nam.
Chúng tôi đã tới những bãi nuôi ngao ở Nam Định và Thái Bình. Không ngờ, đó lại là một nghề hốt bạc! Nói đúng ra, cũng có năm được năm mất. Tuy nhiên, nếu làm đúng kỹ thuật và tìm được đầu ra ổn định thì khó có nghề nào lãi hơn nuôi ngao…
Trong tự nhiên, ngao thường phân bố trên các bãi triều, trong các eo vịnh có đáy là cát pha bùn (mà cát phải chiếm tới 60-80%), nơi ấy ít sóng gió và có lượng nước ngọt nhất định chảy vào. Các bãi ở trung và hạ triều là thích hợp nhất. Tuy nhiên, những nơi sâu tới 10m, ngao vẫn sống được. Nó ưa độ mặn từ 19-26%o. Nếu độ mặn thay đổi đột ngột (ví dụ do nước lũ tràn xuống) thì ngao dễ bị chết và có thể chết hàng loạt.
Ngao là loài sống ở đáy. Nó vùi mình trong cát và thò vòi lên để hô hấp và lấy mồi. Nó bắt mồi hoàn toàn bị động. Nếu gặp trường hợp môi trường bị biến động, không thích hợp, ngao sẽ tự tiết ra một túi nhầy hoặc một dải chất nhầy để giảm nhẹ tỷ trọng cơ thể. Nó sẽ nổi dần lên mặt nước và theo dòng triều để di chuyển tới nơi khác.
Ngao có con đực, con cái riêng. Tròn 1 tuổi, chúng có thể thành thục và phóng trứng và tinh trùng ra môi trường nước. Mỗi lần, chúng phóng ra hàng chục vạn trứng. Trứng được thụ tinh và sẽ phát triển thành ấu trùng rồi dần dần sẽ hình thành con ngao non (hay gọi là ngao cám) để rồi sẽ thành con ngao giống.
Lâu nay, bà con ta thường thu giống ngao trong tự nhiên. Họ chọn những bãi thích hợp trên bờ biển, dọn sạch vỏ nhuyễn thể và gạch đá, bừa kỹ cho xốp đáy, sau đó san phẳng để tạo điều kiện cho giống bám vào được nhiều và ngăn thành nhiều ô. Nước triều sẽ lên xuống, đều đặn trong 5-6 tháng, ngao giống sẽ bám đầy trong lớp cát bùn ở trên mặt. Đợi tới khi mỗi con đạt được 0,5cm thì ta thu lấy giống. Ta cào chúng vào thành đống ở giữa. Đợi 2-3 đợt triều, ngao ngoi lên để kiếm mồi, chúng sẽ tụ lại ở phía trên. Ta sẽ hốt và sàng lọc cát để thu được ngao giống. Nếu ở chỗ nước sâu, ta có thể dùng lưới kéo.
Hiện nay, một số cơ sở đã chủ động tạo được giống ngao nhân tạo. Chúng tôi đã được Giám đốc Công ty Minh Phú -Vũ Trung Kiên đưa đi thăm cơ sở nhân giống ngao nhân tạo của ông. Tuy mỗi năm ông đã nhân được hàng chục triệu con giống, nhưng so với yêu cầu sản xuất thì vẫn không thấm vào đâu. Nếu các địa phương có điều kiện, ta nên mở rộng các cơ sở nhân giống ngao (vì hiện nay 80% số ngao giống vẫn phải nhập từ nước ngoài).
Ngao rất dễ nuôi. Ta chỉ việc chọn bãi phù hợp và thả giống. Không phải cho chúng ăn. Nó tự lọc nước triều để thu lấy thức ăn.
Lưu ý, ta phải dùng đăng tre hoặc lưới để chắn xung quanh, tránh ngao đi mất. Đăng phải cao 0,6-0,7m và chân đăng vùi sâu dưới bùn 0,2-0,3m. Ta cắm cọc (cách nhau 1,2-1,5m) để dựng lưới và ngả lưới về phía trong của bãi. Trên mặt bãi, ta căng nhiều dây ngang để giữ không cho ngao bỏ đi…
Nuôi ngao đâu có khó. Nếu quyết tâm và chịu khó học hỏi thì ai cũng làm được. Tất nhiên, nơi đó phải thích hợp với việc nuôi ngao
Có thể bạn quan tâm

PGS-TS Nguyễn Văn Sánh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu - phát triển ĐBSCL, đưa ra một thực tế rằng nếu tính bình quân diện tích trồng lúa trên đầu người tương ứng với thu nhập từ cây lúa như hiện nay thì nông dân trồng lúa ở gần với ngưỡng nghèo. Trong hệ thống phân phối, chỉ có trên dưới 7% người trồng lúa bán được gạo trực tiếp cho doanh nghiệp, còn lại hạt gạo phải “đội” từ 7 - 8 lớp “cò”. Hơn nữa, nông dân sử dụng “thừa” phân, thuốc làm cho giá thành sản xuất tăng.

Nông dân tham gia mô hình được hỗ trợ 100% con giống với mật độ 5 con/m2 (cá rô đồng là chính, ghép thêm cá sặt rằn, cá chép và cá mè vinh), một phần thức ăn và được cán bộ kỹ thuật của Trung tâm Khuyến nông hỗ trợ kỹ thuật trong suốt vụ nuôi và tổng kết, đánh giá hiệu quả mô hình.

Trong năm 2014, ngư dân tỉnh Tiền Giang đã vượt qua khó khăn do thời tiết, bão lốc và những bất lợi trên biển, tổ chức bám ngư trường, phát triển đội tàu đánh bắt xa bờ... đã khai thác được trên 88.000 tấn hải sản phục vụ tiêu dùng và chế biến xuất khẩu, đạt 100,42% chỉ tiêu cả năm và tăng hơn 0,58% so cùng kỳ năm trước.

Vào tháng 10, giá sầu riêng bắt đầu tăng giá cao trên 60.000 đồng/kg, đặc biệt vào những ngày tháng 11 giá sầu riêng cao kỷ lục, thương lái đến tận vườn mua sầu riêng Ri 6 và Mongthong trên 100.000 đồng/kg, người dân rất phấn khởi.

Ông Lê Văn Mãnh, ngụ ấp Phú Thạnh, xã Phú Mỹ (Tân Phước) vui mừng vì vừa thu hoạch 3.000 m2 khoai mỡ trúng giá. Tại thời điểm này thương lái đến tận ruộng mua với giá 14.000 đồng/kg. Năng suất đạt 3 tấn/1.000 m2, thu nhập khoảng 120 triệu đồng. Còn lại 2.000 m2 trồng sau, cũng sắp cho thu hoạch.