Nuôi ghép cá lóc

Cá lóc là loài ăn động vật điển hình, trong tự nhiên chúng có xu hướng chủ động rượt đuổi con mồi, vì vậy ít người nghĩ đến việc có thể nuôi ghép chung với đối tượng khác.
Bên cạnh đó, chi phí đầu tư cho việc nuôi cá lóc thâm canh cũng không hề nhỏ, trung bình để đầu tư cho 1 ao có thể thu hoạch được 50 tấn cá thương phẩm thì số vốn người nuôi bỏ ra phải hơn 1,5 tỷ đồng. Vì vậy, đối với các hộ dân không có vốn nhiều thì thường lựa chọn mô hình nuôi cá lóc trong vèo đặt trong ao và tận dụng phần diện tích mặt nước còn lại để thả nuôi ghép một số đối tượng khác như rô đồng, rô phi, trê lai…
Về hình thức thì đây là cách làm không mới, tuy nhiên việc tận dụng khoảng không gian trống còn lại của ao để thả nuôi các loài khác sẽ mang lại hiệu quả đáng kể. Phương pháp thực hiện cũng khá đơn giản, cá lóc được nuôi riêng biệt trong nhưng vèo lưới có diện tích từ 6 - 8m2, với mật độ từ 200 - 300 con/m2 vèo, tùy theo kích cỡ con giống.
Tổng diện tích vèo lưới có thể chiếm từ 50 - 80% diện tích ao, phần diện tích còn lại người nuôi có thể thả các loại cá khác với mật độ 30 - 40 con/m2.
Về kỹ thuật chăm sóc cũng tương tự như đối với nuôi cá lóc trong ao đất, tuy nhiên không cần thiết cho các loại cá nuôi ghép ăn thêm vì chúng sẽ sử dụng thức ăn thừa từ các vèo cá lóc, chỉ cần cho ăn bổ sung khi sắp thu hoạch.
Mô hình này có nhiều ưu điểm nổi bật như cá lóc nuôi tập trung trong vèo sẽ giúp người nuôi dễ dàng quản lý và chăm sóc, thức ăn, tỷ lệ hao hụt hay độ đồng đều của cá cũng được kiểm soát chặt chẽ, đến khi thu hoạch lại càng dễ hơn.
Vì vậy, cá sẽ tăng trọng nhanh, đồng cỡ, bán được giá. Phần cá nuôi ghép bên ngoài sẽ tận dụng lượng thức ăn dư thừa của cá lóc, giúp làm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn và giảm ô nhiễm môi trường nước ao.
Tuy các loại cá này chậm lớn do ít được cho ăn nhưng cũng sẽ mang lại lợi nhuận do chi phí đầu tư thấp. Thời gian trung bình mỗi vụ nuôi cá lóc là 6 tháng, như vậy cứ sau 2 vụ cá lóc thì người nuôi tát cạn ao và thu hoạch các loại cá còn lại một lần.
Ông Nguyễn Văn Rô, người nuôi cá lóc tại xã Phú Đức, huyện Tam Nông (Đồng Tháp) cho biết: “Năm rồi tui đầu tư nuôi 2 vèo cá lóc trên diện tích ao 1.000 m2.
Lượng cá lóc giống là 6.000 con, bên ngoài thả thêm khoảng 200 kg cá giống các loại như trê lai, rô phi... đến khi thu hoạch được hơn 2 tấn cá lóc, các loại cá bên ngoài cũng hơn 1 tấn.
Sau khi trừ chi phí, lợi nhuận đạt gần 50 triệu. Thấy cách làm mang lại hiệu quả cao mà chi phí đầu tư thấp nên năm nay tui tiếp tục làm mô hình này”.
Cá lóc là đối tượng nuôi truyền thống, nuôi trong vèo thì lại càng không phải mới, tuy nhiên việc nuôi ghép thêm các loại cá khác trong ao rõ ràng đang mang lại hiệu quả kép cho người nuôi.
Với đa phần các hộ dân không có vốn nhiều, diện tích ao nhỏ thì cách làm này có thể được xem là mô hình xóa đói, giảm nghèo, tận dụng lao động nhàn rỗi và quan trọng là lợi nhuận mang lại khả quan hơn so với các mô hình nông nghiệp khác.
Có thể bạn quan tâm

Không cam chịu cuộc sống nghèo khó, chú Đinh Tấn Hùng ở xóm Mái, xã Trung Sơn, huyện Lương Sơn (Hòa Bình) đã mạnh dạn đầu tư chăn nuôi lợn, gà. Mỗi năm cho chú thu lãi 80-90 triệu đồng.

Ngày 6/6, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Dương làm việc với Công ty TNHH MTV sản xuất và cung ứng tôm càng xanh Bá Tòng về việc đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất giống tôm càng xanh.

Ông Ngô Văn Sơn, nông dân xã Tân Bình (huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai), cho biết tại các lễ hội “Trái cây Nam bộ năm 2013” đang diễn ra ở Suối Tiên (TP. Hồ Chí Minh) và “Lái Thiêu mùa trái chín” khai mạc sáng 8-6, ông đều mang đến giới thiệu trái bưởi hồ lô. Đây là nhà vườn đầu tiên ở Vĩnh Cửu tạo được trái bưởi hồ lô bán trên thị trường.

Thông qua mô hình SX thử nghiệm ở các huyện Hoằng Hóa, Quảng Xương, Thường Xuân, Thiệu Hóa... (Thanh Hóa), những tưởng giống ngô nếp lai tím Fancy 111, Fancy 212 do Cty Advanta phân phối sẽ phát triển rầm rộ, mang lại hiệu quả kinh tế cho người nông dân. Nhưng sau một thời gian, giống ngô này gần như “chết yểu”.

Khóm Cầu Đúc là một trong những đặc sản của tỉnh Hậu Giang. Tuy nhiên, thu nhập của người trồng khóm chưa được đảm bảo, do giá cả bấp bênh. Vì vậy, cần có giải pháp để nâng cao giá trị cho loại nông sản này, góp phần cải thiện điều kiện kinh tế cho người trồng khóm.