Nuôi cá tra, tôm nước lợ đều gặp khó

Ngành nuôi cá tra gặp nhiều khó khăn do xuất khẩu giảm, nắng nóng kéo dài gây dịch bệnh lên cá, đồng thời giá cá không ổn định khiến người nuôi cân nhắc kỹ hơn trước mỗi vụ nuôi. Do đó diện tích nuôi cá tra của một số địa phương có xu hướng giảm như: Hậu Giang giảm 24,2%, Tiền Giang giảm 26%, Bến Tre giảm 23,9%.
Dù vậy, một số tỉnh sản lượng cá tra tăng so với cùng kỳ nhờ chủ động được trong sản xuất và tìm kiếm các thị trường mới ngoài các thị trường truyền thống như: Tiền Giang sản lượng cá tra tăng trưởng khá đạt 19,95 nghìn tấn, tăng 18,9%, Cần Thơ đạt 59,2 nghìn tấn tăng 3,8%, tại Đồng Tháp sản lượng cá tra đạt 180,2 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ.
Cũng giống như nuôi cá tra, người nuôi tôm cũng đang gặp nhiều khó khăn do thời tiết từ đầu năm không thuận lợi cho nuôi, dịch bệnh xảy ra ở một số địa phương, giá tôm nguyên liệu giảm cũng là nguyên nhân làm chậm tiến độ mở rộng diện tích nuôi ở các địa phương.
Diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng ước đạt trên 40 nghìn ha, giảm 18,9% so với cùng kỳ, sản lượng ước đạt 103,8 nghìn tấn giảm 1,6%, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long diện tích đạt 34,8 nghìn ha, giảm 26,5% so với cùng kỳ năm ngoái, sản lượng đạt 66,1 nghìn tấn giảm 22,2%.
Một số tỉnh có diện tích và sản lượng tôm thẻ chân trắng giảm mạnh như: Tiền Giang giảm 46,9% về diện tích và giảm 45,6% về sản lượng, Bến Tre giảm 33% cả về diện tích và sản lượng, Sóc Trăng giảm 41,7% diện tích và 28,3% sản lượng.
Có thể bạn quan tâm

Theo Phòng Nông nghiệp - PTNT huyện Đắk Song, vụ đông xuân 2013-2014, tổng diện tích gieo trồng các loại cây trồng ngắn ngày chính trong vụ là 1.165 ha, đạt 101% kế hoạch. Sản lượng lương thực quy thóc trong vụ đạt 1.883 tấn, đạt 115% kế hoạch, tăng 582 tấn so với vụ trước.

Chưa năm nào người nông dân Thái Bình lại chứng kiến nạn sâu cuốn lá nhỏ hoành hành dữ dội như vụ mùa năm nay. Sâu hại trên 100% các giống lúa, trà lúa ở tất cả các huyện, thành phố với mật độ cao gấp 7 - 10 lần so với trung bình nhiều năm.

Cơ cấu giống phần lớn là lúa thơm các loại (bắc thơm số 7, hương thơm số 1, T10) chiếm 50 – 55% diện tích; lúa lai 5 – 10% diện tích; các giống lúa khác (Khang dân, bao thai, nếp N97, IR 352) chiếm 20 – 25% diện tích; còn lại là giống IR 64.

Đó là nguồn H (Huế) của Trường đại học Nông lâm Huế và nguồn GSR (siêu lúa xanh) của Trường đại học Nông lâm TP Hồ Chí Minh với giống đối chứng ML 49 trồng phổ biến tại địa phương.

Những bắp ngô hạt căng tròn, vàng óng trên nương, trái nhà, sân phơi. Tiếng máy tách hạt ngô lách cách bản trên, thôn dưới. Những tiếng gọi nhau í ới, nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt đẫm mồ hôi của người nông dân đang phơi ngô quyện lẫn trong hương thơm ngô mới…