Trang chủ / Cá nước ngọt / Cá lóc

Nuôi Cá Lóc Cao Sản Trên Vùng Duyên Hải Ở Nghệ An

Nuôi Cá Lóc Cao Sản Trên Vùng Duyên Hải Ở Nghệ An
Ngày đăng: 25/02/2014

Vùng đất duyên hải tỉnh Nghệ An chủ yếu là đất pha cát bạc màu, giá trị kinh tế khi trồng cây nông nghiệp rất thấp. Những năm gần đây, trên chính vùng đất ấy đã cho thu nhập rất cao (1 - 1,5 triệu đồng/m2) từ nghề nuôi cá lóc đen cao sản.

Tại phường Nghi Hòa (thị xã Cửa Lò) đất pha cát bạc màu, chủ yếu bỏ hoang hoặc chỉ trồng cây lấy củi trong khi đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Là người dân nơi đây, vốn xuất thân từ ngành Thủy sản, ông Nguyễn Long Vân đã tự bỏ kinh phí đi tham quan học tập trong và ngoài nước về cách nuôi trồng thủy sản.

Sau 2 năm ông nuôi thử nghiệm nhiều loại thủy sản tại vườn nhà, kết quả cho thấy cá lóc đen là vật nuôi phù hợp với điều kiện địa phương, có giá trị kinh tế hơn. Được sự giúp đỡ của Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Thủy sản, ông Nguyễn Long Vân đã triển khai các dự án: "Nghiên cứu, ứng dụng Tiến bộ khoa học-công nghệ, xây dựng mô hình nuôi thủy hải sản trên đất vườn ven biển Nghệ An" (2006), "Nuôi cá lóc cao sản hướng công nghiệp công nghệ mới" (2007) và "Công trình nuôi cá lóc đen qua đông" (2008). Hiện tại, gia đình ông Long Vân có 10 bể xi măng với diện tích 600m2, tạo thành một vườn trại nuôi thủy sản nước ngọt quy mô lớn nhất phường, mỗi năm thu nhập hàng trăm triệu đồng.

Cá lóc đen là loại chóng lớn ở thời kỳ 1-2 tháng tuổi, tốc độ tăng trưởng trung bình 0,1- 0,15kg/con/tháng; tháng thứ 3 trở đi tăng trung bình mỗi tháng 0,15kg/con/tháng. Chúng thường ăn lẫn nhau nên tỷ lệ hao hụt lớn.

Qua thời gian nuôi ban đầu, ông Long Vân thường phân loại cá vượt đàn nuôi riêng. Về thiết kế bể nuôi: tường bể cao 0,80m, với diện tích khoảng 30m2 - 60m2 phù hợp với mật độ nuôi 60 con/m2. Nắm được đặc điểm của cá lóc đen ưa nhảy nên hệ thống chống cá thoát ra ngoài mỗi lần có mưa rào được chú trọng.

Dọc trên tường ao làm sẵn lỗ để cắm cọc sắt, đầu cắm vào lỗ cao 0,30m, còn lại 0,50m có hình cong ngã vào lòng ao với góc 1200. Căng theo hàng cọc bằng lưới pholytale hoặc ni lông A = 8cm, chiều cao 0,70m che kín hết tường ao. Bên trong tường còn lót một lớp xốp mỏng, mỗi lần cá nhảy không chạm vào tường gây thương vong.

Với thời tiết khắc nghiệt, ông Long Vân đã xây dựng hệ thống chống nóng vào mùa hè, trồng các loại cây leo như: mướp, hoa thiên lý, chanh leo, Làm giàn cao 2,5m phủ kín mặt ao. Cách chống nóng này vừa có thể bảo đảm an toàn cho cá, lại có thể cho thu hoạch từ sản phẩm của các loại cây trồng trên. Vào mùa hè, cần luôn bảo đảm nước trong ao sâu 0,40m - 0,50m.

Đặc điểm của cá lóc đen thích nghi vùng nhiệt đới, nếu nuôi vào mùa đông thì cần chú trọng đến hệ thống chống rét. Với mật độ nuôi 60 con/m2 có thể dùng gạch ngói tạo thành hang hốc cho cá trú ẩn. Tạo nguồn nước từ lòng đất sâu 7 - 10m bơm trực tiếp vào đầu ao, cuối ao mở van xả nước giá lạnh ra ngoài.

Tuỳ theo nhiệt độ mà áp dụng thời gian thích hợp bơm và xả nước. Tăng tính ham ăn, tăng sức đề kháng cho cá bằng vitamin B1 trộn lẫn vào thức ăn, ướp 1 - 2 tiếng đồng hồ với tỷ lệ 1kg thuốc/200kg thức ăn (thuốc do nhà máy chế biến thức ăn Bộ Thuỷ sản chế biến).

Dùng bạt phủ kín mặt ao khi có sương muối. Công trình nuôi qua đông với năng suất cao đã góp phần bình ổn thị trường cá lóc trong dịp Tết Nguyên đán, người nuôi cá có thu nhập cao hơn.

Phòng chữa bệnh cho cá lóc đen là một khâu vô cùng quan trọng. Nên thay nước định kỳ 1 đến 2 lần/ngày ngay sau bữa ăn. Mỗi lần cho cá ăn, thức ăn phải rửa sạch, để ráo nước mới cho ăn. Làm vệ sinh lòng ao vào mỗi sáng. Hạn chế tối thiểu dùng kháng sinh cho cá.

Dùng thuốc thực vật chữa trị như lá, hoa, cây bông bụt cộng với cây cỏ mực, lá xoan đâu giã nhỏ, vắt lấy nước, trộn vào thức ăn cho cá theo tỷ lệ 1/2 bát nước thuốc trên 3 kg thức ăn. Cho ăn liên tục trong 3 - 4 ngày, bã thuốc rải vào nước trong ao (thời điểm này 2 - 3 ngày mới thay nước).

Nuôi cá lóc cao sản theo công nghệ sạch nguồn thức ăn chủ yếu là cá tạp (95%), cám: gạo, ngô, đậu nành, khô dầu (5%) trộn với cá đã xay nhỏ trong thời kỳ đầu; thời kỳ sau cắt khúc, lớn lên có thể để nguyên con. Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng và chiều. Đối với ao xi măng thả ngay vào đáy ao, nơi gần lỗ nước thải.

Sau mỗi lần cho ăn mở lu xả nước, quậy các cặn bã cho ra dần khoảng 5 phút rồi đóng lại. Với công nghệ này, mỗi năm gia đình ông Long Vân đã thu được 1.000.000 đồng/1m2. Mô hình này đã được nhân rộng ra từ 2 hộ năm 2006 lên 18 hộ năm 2007 và năm 2008 đã có đến 130 hộ, thành lập được Hiệp hội cá lóc Nghệ An.

Hiện nay, mô hình nuôi cá lóc cao sản đã mở rộng lên miền núi như hộ của anh Nguyễn Văn Quang (Tây Hiếu, Nghĩa Đàn) và hộ ông Nguyễn Văn Nhân (Hưng Nguyên). Đồng thời nhân rộng đến các tỉnh bạn như: Hà Tĩnh, Thanh Hóa và Hải Phòng...


Có thể bạn quan tâm

Kỹ Thuật Nuôi Cá Lóc Kỹ Thuật Nuôi Cá Lóc

Cá lóc là loài cá sống phổ biến ở đồng ruộng, kênh, rạch, ao, hồ, đầm, tốc độ sinh trưởng nhanh, thích nghi với mọi môi trường nước (đục, tù, nóng) có thể chịu đựng được ở nhiệt độ 39 - 40 o C

11/02/2011
Kỹ Thuật Nuôi Cá Lóc Bông Kỹ Thuật Nuôi Cá Lóc Bông

Cá Lóc bông (Channa micropeltes Cuvier & Valencienes 1831) là loài cá dữ, nhưng thịt thơm ngon và rất được ưa chuộng. Kích cỡ cá lớn nhất đạt tới chiều dài 130cm, nặng 20kg

11/02/2011
Phương Pháp Nuôi Cá Lóc Phương Pháp Nuôi Cá Lóc

Cũng giống như ương nuôi các loài cá bột khác, trước khi thả cá phải tẩy dọn ao sạch, gây nuôi thức ăn tự nhiên sẵn trong ao. Mật độ nuôi 5 - 10 vạn/666m2, thông thường là 6 - 7 vạn. Trong 7 - 8 ngày đầu chưa cần cho ăn, sau đó vừa cho ăn vừa bón phân, mỗi vạn cá bột cho ăn 3 - 4kg tảo trần, nuôi như vậy 18 - 20 ngày khi toàn thân cá biến thành màu vàng bắt đầu xuất hiện vảy, sau đó biến thành màu đen, thân dài 3 - 6 cm, tỉ lệ sống 60 - 65%.

31/01/2012
Nuôi Cá Lóc Trong Mùng Lưới Nuôi Cá Lóc Trong Mùng Lưới

Nuôi cá lóc thịt trong mùng lưới (vèo) xuất hiện ngẫu nhiên tại vùng lũ những năm gần đây. Người dân nuôi cá lóc đã nghĩ đến dùng lưới thưa để tiện việc quản lý và cho cá ăn nhằm hạn chế thiệt hại.

31/01/2012
Chú Ý Khi Nuôi Cá Lóc Con Và Cá Lóc Thịt Chú Ý Khi Nuôi Cá Lóc Con Và Cá Lóc Thịt

Căn cứ vào tính ăn của cá lóc có thể nuôi ghép với cá nuôi như cá mè, trôi, chép, trắm cỏ, rô phi, diếc để khống chế mật độ của những loài cá tạp và những cá sinh đẻ nhiều như cá rô phi, cá diếc nhằm đảm bảo thức ăn cho các loài cá kinh tế chủ yếu, cải tạo và nâng cao sức sản xuất các vùng nước. Tuy vậy, khi nuôi, cần tính cẩn trọng chú ý tỉ lệ, mật độ, kích cỡ cá thả.

31/01/2012