Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Nông Nghiệp Tây Ninh 5 Năm Tới

Nông Nghiệp Tây Ninh 5 Năm Tới
Ngày đăng: 01/08/2011

Theo Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 2011-2015 của UBND tỉnh Tây Ninh trình kỳ họp thứ hai -HĐND tỉnh khoá VIII cho biết, 5 năm qua (2006-2010), sản xuất nông - lâm - thuỷ sản của tỉnh tiếp tục duy trì được tăng trưởng cao trong điều kiện khó khăn và thách thức do dịch bệnh và thời tiết. Giá trị sản xuất tăng bình quân hằng năm 6,6%, vượt mức tăng bình quân hằng năm đã đề ra (KH: 5,5-6%). Chất lượng sản xuất hàng hoá ngày càng nâng lên; khoa học- công nghệ được nhân rộng; phát huy được lợi thế, hiệu quả về đất đai. Trồng trọt gắn với thị trường tiêu thụ. Năng suất các loại cây trồng đều tăng. Chăn nuôi có khởi sắc hơn, chăn nuôi trang trại với mô hình công nghệ mới được hình thành. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng bình quân hằng năm 12%; nuôi trồng thuỷ sản phát triển theo hướng tập trung, sản lượng bình quân hằng năm tăng 22,6%. Kinh tế trang trại tiếp tục phát triển với hơn 2.400 trang trại nông - lâm - thuỷ sản. Tỷ lệ cơ giới hoá trong nông nghiệp đạt 50%. Công tác lâm nghiệp, tập trung công tác bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng. 5 năm qua (2006-2010) cả tỉnh trồng được 2.805 ha rừng, bình quân hằng năm trồng được 560 ha, trồng 4 triệu cây phân tán. Đến năm 2010, diện tích đất có rừng 45.308 ha (chưa kể diện tích khoanh nuôi rừng tái sinh: 10.354 ha), nâng tỷ lệ độ che phủ tự nhiên đạt 40,1% (KH: trên 40%). Công tác thuỷ lợi, quản lý thuỷ nông từng bước được cải tiến, phục vụ tưới an toàn cho sản xuất nông nghiệp và phục vụ chế biến cho một số nhà máy công nghiệp.

Từ những kết quả đạt được trong 5 năm qua, UBND tỉnh đề ra mục tiêu phát triển nông-lâm-thuỷ sản trong 5 năm tới (2011-2015): Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả, khả năng cạnh tranh cao; từng bước hình thành nền nông nghiệp sạch; hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao. Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển theo hướng gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại.

Giá trị sản xuất nông-lâm-thuỷ sản tăng bình quân hằng năm giai đoạn 2011-2015 là 5,5%; dự kiến đến năm 2015 tỷ trọng nông- lâm -thuỷ sản trong GDP đạt 18-19%; tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị sản xuất ngành nông nghiệp đạt từ 20% trở lên; 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới.

Định hướng phát triển nông- lâm-ngư nghiệp trong thời gian tới là đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, tạo đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Phát triển các mô hình liên kết 4 nhà trong sản xuất. Tiếp tục mở rộng việc ký kết hợp đồng đầu tư và thu mua sản phẩm nông nghiệp giữa nhà doanh nghiệp với nông dân. Quy hoạch lại đất trồng lúa; hình thành vùng lúa cao sản chất lượng cao; bảo đảm an ninh lương thực; phát triển các vùng chuyên canh rau sạch; khuyến khích phát triển cây cao su; duy trì vùng nguyên liệu và năng suất cây mía. Tập trung tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, xây dựng thương  hiệu các cây công nghiệp. Diện tích gieo trồng một số cây trồng chính như sau: lúa: 120.000 ha, mì: 30.000 ha, mía: 30.000 ha, cao su: 75.000 ha.

 Phát triển ngành chăn nuôi theo phương thức chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp bảo đảm an toàn về dịch bệnh. Tập trung nâng cao chất lượng giống, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả; tăng cường công tác thú y, phòng chống dịch bệnh; phát triển sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp; tổ chức lại và hiện đại hoá cơ sở  giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm.

 Quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 3 loại rừng: rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Tập trung công tác bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh rừng. Duy trì quỹ đất lâm nghiệp khoảng 70.000 ha. Tiếp tục giao nhận khoán toàn bộ diện tích rừng  hiện có; đẩy mạnh trồng rừng tập trung, trồng cây phân tán. Khuyến khích các cá nhân, tổ chức mọi thành phần kinh tế tham gia bảo vệ, phát triển rừng.

 Nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng  hoá đi đôi  với bảo vệ môi trường sinh thái. Tập trung bảo vệ và khai thác hợp lý nguồn lợi thuỷ sản hồ Dầu Tiếng đi đôi với bảo đảm nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Phát triển nuôi trồng ven sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông, kênh chính Đông, kênh chính Tây.


Có thể bạn quan tâm

Chất Lượng Giống Thủy Sản Nước Ngọt Không Cao Ở Hải Phòng Chất Lượng Giống Thủy Sản Nước Ngọt Không Cao Ở Hải Phòng

Điểm lại các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống thủy sản nước ngọt trên địa bàn thành phố Hải Phòng, nhiều người không khỏi giật mình khi các cơ sở tư nhân đang chiếm lĩnh thị trường.

10/06/2012
Công Nghiệp Hóa Ngành Sản Xuất Trứng Công Nghiệp Hóa Ngành Sản Xuất Trứng

Song công nghiệp hóa sản xuất, chế biến trứng ở châu Á lại chưa phát triển và châu Á lại cũng là nơi bùng phát nhiều nhất trên thế giới về dịch cúm gia cầm, ảnh hưởng đến độ an toàn của sản phẩm trứng.

15/07/2012
Những Kỹ Sư Trên Đồng Ruộng Những Kỹ Sư Trên Đồng Ruộng

Thiết bị “4 trong 1” này là sáng tạo của ông Nguyễn Văn Hai ở phường Xuân An, TP.Phan Thiết, Bình Thuận sẽ được T.Ư Hội NDVN trao giải Sáng tạo kỹ thuật nhà nông lần thứ III, nhân Hội nghị NDSXKD giỏi lần này.

19/05/2012
Làm Mạ Cho Đậu Tương Hè Làm Mạ Cho Đậu Tương Hè

Lượng giống đậu tương cần 1,5 - 2kg/sào Bắc bộ. Thường sử dụng các giống ngắn ngày như: DT 99 và DT 12 có thời gian sinh trưởng 72 - 75 ngày. Làm mạ đậu tương: Cần 5- 6 m2 đất mạ cho 1 sào Bắc bộ. Dùng cát 70% + đất màu 30%, tạo độ xốp, trộn thành lớp đất dày 10cm trên nền đất cứng. Sử dụng 1,5 - 2kg giống tốt để làm mạ cho 1 sào Bắc bộ. Trải đất + cát dày 8cm, dùng ô doa tưới đẫm nước.

15/07/2012
Dự Án Trồng Rừng “KfW6” Tại Bình Định: 15.000 Hộ Dân Có Sinh Kế Dự Án Trồng Rừng “KfW6” Tại Bình Định: 15.000 Hộ Dân Có Sinh Kế

Dự án Khôi phục và quản lý rừng bền vững (còn gọi là Dự án KfW6) do Chính phủ Đức hỗ trợ vốn được triển khai tại Bình Định từ năm 2006. Đến nay dự án đã cho hiệu quả khả quan...

14/06/2012