Trang chủ / Tin tức / Mô hình kinh tế

Nông Dân Tâm Sự Trồng Lúa Vụ 3

Nông Dân Tâm Sự Trồng Lúa Vụ 3
Ngày đăng: 01/06/2013

Ngày 30/5 sắp sạ lúa trong đất 3 vụ, khi được tôi hỏi có thích làm 3 vụ hay không thì anh Ba Lố một nông dân làm ruộng cạnh tôi trả lời rằng: "Ở không chẳng biết làm gì, người ta làm mình phải làm theo, chẳng lẽ bỏ ruộng không làm, chứ giá lúa thấp như vầy, giá vật tư lại cao như vậy, thì hổng có ham làm 3 vụ một chút nào cả, giá lúa vầy hoài chắc gia đình tôi phải lên Bình Dương kiếm sống, chớ làm ruộng sống không nổi".

Độc canh 3 vụ lúa trong năm đã không còn hiệu quả.

Là nhà nông, tôi biết lúa vụ 3 được phát triển là nhờ vào chính sách thành lập cụm, tuyến dân cư cho ĐBSCL mấy năm trước và không phải nơi nào cũng làm được lúa vụ 3 hay 3 vụ lúa 1 năm.

Các cụm, tuyến dân cư được đắp với chiều rộng khoảng 30 m, chiều cao cao hơn đỉnh lủ năm 2000 khoảng 1 m. Năm 2000 bà con miền Tây phải hứng chịu cơn lũ lịch sử và mốc lũ của năm đó thường được nhà nông và chính quyền tính toán để làm bờ bao, đê bao.

Khi các cụm, tuyến dân cư kép kín kết hợp với trục lộ giao thông thì diện tích đất trong khu vực khép kín này được chính quyền họp dân để tiến hành làm lúa 3 vụ, và nông dân đồng ý làm 3 vụ lúa một năm.

Như vậy, việc làm lúa 3 vụ là do thuận tiện mà làm, cụm tuyến dân cư được nhà nước đầu tư lớn và chắc chắn, bảo đảm an toàn tuyệt đối cho lúa của nông dân vào mùa lũ, đặc biệt là nông dân không tốn tiền xây dựng cụm, tuyến dân cư và cũng không tốn tiền duy trì sừa chữa cụm tuyến dân cư.

Khi mới bắt đầu làm 3 vụ lúa, một vài năm đầu, nông dân chúng tôi rất phấn khởi, vì năng suất không thua kém đất 2 vụ mà còn thu thêm tiền ở vụ 3.

Thế nhưng, vài năm sau, năng suất lúa giảm dần, sâu bệnh lại tăng, khiến cho lợi nhuận làm từ 3 vụ lúa có năm thấp hơn so với đất lúa 2 vụ. Thu nhập thấp hơn lúa 2 vụ nhưng công sức làm lúa 3 vụ bỏ ra nhiều hơn lúa 2 vụ vì phải làm thêm 3 tháng lúa vụ 3.

Dịch bệnh trong lúa 3 vụ nặng hơn lúa 2 vụ rất nhiều, cho nên chi phí thuốc bảo vệ thực vật trong đất 3 vụ nhiều hơn trong đất 2 vụ rất nhiều. Chi phí tăng nhưng năng suất lại giảm nên thu nhập của việc độc canh cây lúa 3 vụ một năm rất thất thường, có năm giảm so với làm lúa 2 vụ một năm.

Hiện nay, giá lúa càng ngày càng thấp, làm lúa 3 vụ không có lời, nhiều vụ chỉ là "tiền cũ đổi tiền mới", tức bỏ 1 đồng đầu tư thì 3 tháng sau lấy lại cũng... 1 đồng. Nông dân lám lúa là do quán tính và do không biết làm việc gì khác hay trồng được cái gì khác trên đất lúa 3 vụ này, nên phải bám ruộng mà làm 3 vụ lúa một năm, chứ nếu tính kỹ thì làm lúa vụ 3 không có hiệu quả.

Làm 3 vụ lúa một năm không tốn tiền xây dựng và bảo dưỡng đê ngăn lũ mà vẫn không có lời, vậy, việc nông dân bỏ tiền ra đắp đê bao để làm lúa 3 vụ là một việc làm sai lầm về mặt kinh tế.

Bởi vì, chi phí xây dựng đê bao và chi phí bảo dưỡng sửa chữa đê bao rất lớn, nâng giá thành lúa lên rất cao nông dân sẽ không có lời.

Không những không được phép tăng diện tích lúa vụ 3 bằng cách bắt nông dân đóng tiền làm đê bao, mà những nơi đang làm lúa 3 vụ cũng phải có kế hoạch thay đổi việc độc canh 3 vụ lúa một năm.

Tốt nhất là chuyển việc độc canh 3 vụ lúa một năm thành 2 vụ lúa một vụ màu, hoặc 2 vụ màu một vụ lúa.

“Tôi không đồng tình với ý kiến cho rằng để giúp người dân cải thiện đời sống thì phải làm thêm lúa vụ 3. Thực tế, mấy năm nay, số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đều tăng nhưng chưa hẳn đời sống người dân tốt hơn mà ở một khía cạnh khác là chúng ta xuất khẩu càng nhiều gạo chẳng khác nào bảo hộ cho những nước mua gạo của Việt Nam”. Giáo sư Võ Tòng Xuân đã có ý kiến phát biểu trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online.

Giảm bớt đất 3 vụ lúa

Hiện nay, nông dân chúng tôi nghe rằng: Việt Nam đang thiếu nguyên liệu để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm và thủy sản, thế giới họ đang cần nguyên liệu sinh học sản xuất từ ngũ cốc, châu Phi cần bắp và Trung Quốc hiện đang cần khoai lang. Đây là những cây màu rất có triển vọng mà nông dân chúng tôi có thể gieo trồng.

Nông dân chúng tôi có thể trồng mọi loại cây trồng theo yêu cầu, nếu nó hợp với điều kiện thời tiết và thổ nhưỡng của Việt Nam.

Thế nhưng, để phát triển cây màu trên diện tích lớn, cần phải thực hiện được 2 vấn đề quan trọng đó là: Cần phải tìm được thị trường tiêu thụ ổn định và phải cơ giới hóa được các khâu sản xuất: Gieo sạ, phun thuốc và thu hoạch cây màu.

Vấn đề quan trọng nhất là phải tìm được thị trường và lập kế hoạch sản xuất, việc này phải do Chính phủ thực hiện mà hai bộ chủ chốt là Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn và Bộ Công thương.

Đừng bao giờ hỏi nông dân phải trồng cây gì, bởi vì chúng ta đang nói đến việc sản xuất để xuất khẩu nông sản ra thế giới, việc sản xuất nông sản số lượng lớn phải có kế hoạch kèm theo là điều tra nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại từ Chính phủ. Chứ bây giờ bảo nông dân chúng tôi trồng bắp, 1/3 diện tích lúa vụ 3 mà chuyển sang trồng bắp thì 1 vụ đầu không sao chứ vụ bắp năm thứ 2 thì ai mua cho hết?

Vấn đề cơ giới hóa không phải là vấn đề lớn lắm, thí dụ như cây bắp tôi thấy thế giới họ đã cơ giới hóa việc gieo tỉa, việc phun thuốc và thu hoạch từ nhiều năm nay, chỉ có điều máy móc của họ lớn cồng kềnh không thích hợp với Việt Nam, nhưng việc cải tiến cho thích hợp là điều tương đối dễ trong khả năng của những nhà khoa học Việt Nam. Còn cơ giới hóa những cây màu khác cũng nằm trong tầm tay của các nhà khoa học Việt Nam.

Nông dân chúng tôi mong rằng: Chính phủ có kế hoạch chuyển đổi thế độc canh 3 vụ lúa trong năm thành cơ cấu 2 vụ lúa 1 vụ màu hoặc 2 vụ màu 1 vụ lúa, để nâng cao thu nhập cho nông dân.


Có thể bạn quan tâm

Dịch Bệnh Gây Hại 31,5 Ha Tôm Nuôi Dịch Bệnh Gây Hại 31,5 Ha Tôm Nuôi

Sở NN-PTNT tỉnh Bình Định cho biết, đến nay, nông dân các huyện Tuy Phước, Phù Cát, Phù Mỹ, Hoài Nhơn và TP Quy Nhơn đã sử dụng trên 1.915 ha mặt nước để nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú theo hình thức thâm canh, bán thâm canh và quảng canh cải tiến. Điều đáng lo ngại là tình hình dịch bệnh tôm diễn biến khá phức tạp, hiện có 31,5 ha mặt nước nuôi tôm tại huyện Phù Mỹ, Tuy Phước, Phù Cát, Hoài Nhơn đã bị dịch bệnh do virút đốm trắng và bệnh do môi trường gây hại. Đáng lo ngại là có một số vùng nuôi tôm đã xuất hiện hội chứng tôm chết sớm khiến cho người nuôi tôm lo lắng. Trước tình hình trên, ngành Nông nghiệp tỉnh đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp với chính quyền các địa phương khoanh vùng để xử lý dịch bệnh, nhằm khống chế và hạn chế dịch bệnh lây lan, đồng thời hướng dẫn người nuôi tôm áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh, bảo vệ tôm nuôi.

06/06/2013
Mô Hình Nuôi Lợn “Không Tắm” Mang Lại Hiệu Quả Cao Mô Hình Nuôi Lợn “Không Tắm” Mang Lại Hiệu Quả Cao

Tỉnh Tiền Giang đang thực hiện thí điểm mô hình nuôi lợn trên nền đệm lót sinh học, không tắm cho lợn suốt quá trình nuôi, vừa giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi.

06/06/2013
114 Trại Được Cấp Chứng Nhận An Toàn Dịch Bệnh 114 Trại Được Cấp Chứng Nhận An Toàn Dịch Bệnh

Từ đầu năm đến nay, Chi cục Thú y Đồng Nai đã hướng dẫn và đề nghị cấp chứng nhận an toàn dịch bệnh cho 18 trang trại chăn nuôi trong tỉnh và tái đăng ký cho 46 trang trại. Hiện toàn tỉnh có 114 cơ sở chăn nuôi đã được cấp chứng nhận an toàn dịch bệnh, gồm 65 trang trại gà và 49 trang trại heo

06/06/2013
Những Giống Lúa Lai Thích Nghi Với Độ Mặn Cao Những Giống Lúa Lai Thích Nghi Với Độ Mặn Cao

Đề tài Tuyển chọn các giống lúa chịu mặn thích nghi với vùng canh tác lúa chịu ảnh hưởng mặn ven biển của vùng Đồng bằng sông Cửu Long được chính thức triển khai từ năm 2011 đến năm 2013.

06/06/2013
Xây Dựng Mô Hình Khắc Phục Hiện Tượng Sượng Trái Sầu Riêng Xây Dựng Mô Hình Khắc Phục Hiện Tượng Sượng Trái Sầu Riêng

Sở Khoa học và Công nghệ Bến Tre đã tổ chức Hội đồng Khoa học nghiệm thu Dự án “Xây dựng mô hình khắc phục hiện tượng sượng trái sầu riêng trên địa bàn huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre”, do Thạc sĩ Bùi Thanh Liêm (công tác tại Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Chợ Lách) làm chủ nhiệm.

06/06/2013