Nhiều Triển Vọng Cho Xuất Khẩu Rau Quả

Lần đầu tiên xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt cột mốc gần 1,5 tỉ USD, tăng gần 500 triệu USD so với năm 2013. Kim ngạch mặt hàng này những năm tới sẽ còn cao hơn nữa bởi hiện các DN không chỉ xuất tươi mà còn tập trung chế biến thành những sản phẩm có giá trị gia tăng.
Xuất thô nên phụ thuộc vào thị trường gầnSố liệu thống kê cho thấy, các mặt hàng rau quả xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào thị trường châu Á khi chiếm 7/10 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan-Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia.
Ông Nguyễn Văn Kỳ, Tổng thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit) cho biết, do châu Á là thị trường gần Việt Nam nên việc vận chuyển bằng đường thủy, đường bộ dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, những thị trường như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc hiện đã mở cửa lại cho rau quả Việt Nam nên DN có cơ hội mở rộng thị phần, tăng giá trị xuất khẩu.
Tuy nhiên, những năm trước, DN chủ yếu tập trung xuất rau quả chưa chế biến nhưng nay đã có thêm một số DN đầu tư dây chuyền để làm ra những sản phẩm đóng hộp, đông lạnh phục vụ xuất khẩu.
Rau quả chế biến sâu không chỉ tăng giá trị mà còn đem lại lợi thế cạnh tranh, giúp sản phẩm dễ dàng hơn trong việc vượt qua những rào cản kỹ thuật của các thị trường nhập khẩu. Lý do bởi những sản phẩm ở dạng đóng hộp, đông lạnh thường không bị kiểm tra chặt về vệ sinh thực phẩm như sản phẩm ở dạng tươi.
“Mấy năm qua, rau quả tươi xuất sang EU như ớt, rau húng, quế, thanh long… thường xuyên bị cảnh báo về mức độ an toàn vệ sinh thực phẩm. Thậm chí, có thời điểm EU đưa ra cảnh báo sẽ cấm toàn bộ các mặt hàng rau quả của Việt Nam nếu phát hiện đủ 5 lô hàng không đảm bảo”, đại diện Vinafruit cho hay.
Điều này khiến lợi thế của một nước nhiệt đới có nhiều loại rau quả rất được các thị trường có khí hậu ôn đới như Bắc Á, châu Âu hay Bắc Mỹ ưa thích ở một khía canh nào đó đã không thể phát huy lợi thế.
Chế biến sâu để hướng đến thị trường xa
Để xuất vào những thị trường lớn, nhiều tiềm năng nhưng ở xa, cách duy nhất là phải chuyển hướng, giảm tỷ trọng xuất khẩu tươi, tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng qua chế biến.
Theo ông Nguyễn Văn Kỳ, trước đây, DN xuất ở dạng tươi do thiếu vốn cũng như kinh nghiệm về phát triển thị trường. Nhưng vài năm trở lại đây, xuất khẩu rau quả khá thuận lợi, kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước nên nhiều DN đã tích lũy đủ để đầu tư chế biến sâu theo hướng gia tăng giá trị. Đây chính là lý do tin tưởng trong những năm tới giá trị xuất khẩu mặt hàng rau quả sẽ tiếp tục tăng mạnh.
Ông Nguyễn Thanh Bình, Tổng Giám đốc Tổng công ty Rau quả nông sản (Vegetexcovn), đơn vị đang chiếm hơn 10% thị phần xuất khẩu rau quả của Việt Nam tiết lộ, nhằm hướng đến các thị trường xa, trong những năm qua, Vegetexcovn đã tập trung đầu tư vào chế biến. Năm 2014, mặt hàng rau quả đông lạnh chiếm 50%, rau quả đóng hộp chiếm 40%, sản phẩm tươi chỉ chiếm 10% các mặt hàng của công ty.
Tuy nhiên, muốn có được những hợp đồng xuất khẩu rau quả dạng đông lạnh hoặc chế biến đóng hộp, cách thứ nhất là DN tự tìm kiếm thị trường, cách còn lại là làm theo đơn đặt hàng của các nhà nhập khẩu. Với cách làm này, DN tiết kiệm được những chi phí về tìm hiểu thị trường, tiếp thị sản phẩm nhưng phải có khả năng nghiên cứu sản phẩm mới, đầu tư dây chuyền chế biến.
“Muốn được các nhà nhập khẩu đem hợp đồng đến thì các công ty phải có bộ phận nghiên cứu, phát triển sản phẩm có đủ năng lực, thậm chí chỉ cần nghe đối tác mô tả sơ qua về sản phẩm là phải làm được nếu không họ sẽ tìm đối tác khác”, ông Bình nói.
Diện tích rau quả trong nước khoảng 1.650 ha. Trong đó, rau khoảng 850.000 ha, sản lượng 14,5 triệu tấn; cây ăn quả trên 800.000 ha, sản lượng trên 7,5 triệu tấn. Tuy nhiên, tỷ lệ rau quả chế biến sâu chiếm tỷ trọng thấp, chỉ có khoảng 10% rau quả xuất khẩu qua chế biến.
Hiện cả nước có trên 100 cơ sở chế biến rau quả quy mô công nghiệp với tổng công suất 300.000 tấn sản phẩm/năm. Trong số này, 50% sản phẩm chế biến là đóng hộp.
Các mặt hàng tiềm năng, thị trường thế giới có nhu cầu cao là: Rau quả tươi (Thanh long, bưởi, xoài, vải, chôm chôm, bắp cải, cà chua, dưa chuột, các loại đậu rau, rau gia vị…); rau quả chế biến (Dứa, vải, ngô, cà rốt, hành, gấc…); chiên dòn (Mít, khoai, chuối…).
Có thể bạn quan tâm

Theo đánh giá của Tổ điều hành xất khẩu gạo, các nước nhập khẩu lớn ở khu vực châu Á tăng cường nhập khẩu, một số thị trường trọng điểm truyền thống cũng tiếp tục giao dịch. Cụ thể, Trung Quốc vẫn đứng đầu danh sách thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam với 31,1% thị phần.

Thời gian gần đây, sau nhiều thông tin rau có chất tăng trưởng, chị Hoa (quận 3, TP HCM) rất hạn chế mua rau ở chợ mà thường xuyên đặt hàng rau tại Đà Lạt chuyển xuống. Chị đặc biệt hứng thú với các loại rau củ tí hon hay còn gọi là “baby”. Trọng lượng của các sản phẩm này nhỏ hơn rất nhiều so với những loại củ quả thông thường. Bí ngô chỉ vài gram và nằm gọn lòng bàn tay, còn cà rốt như ngón tay cái.

Đến Sa Huỳnh (Đức Phổ), những thực khách xuýt xoa khen ngợi các món ăn được chế biến từ nhum. Cách đấy không xa, nhiều bóng người cứ ẩn hiện sau những con sóng lặn bắt từng con nhum cố bám vào ghềnh đá ven bờ biển. Cơ thể họ tím tái vì ngâm lâu trong làn nước lạnh.

Năm 2012, tại kỳ hợp thứ 4 HĐND tỉnh Sóc Trăng khóa VIII (nhiệm kỳ 2011-2016) đã ra Nghị quyết số 12/2012/NQ-HĐND ngày 06/7/2012 thông qua Đề án phát triển SX lúa đặc sản đến năm 2015 với mục tiêu của Đề án đến cuối năm 2015, diện tích lúa đặc sản vùng đề án đạt 52.000 ha trong kế hoạch 70.000 ha của toàn tỉnh.

Thông tin tại hội nghị, Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn - nhà vận chuyển thủy nội địa hàng đầu tại ĐBSCL - cho biết từ năm 2010 đến nay, dù sản lượng vận chuyển hàng hóa bằng container từ ĐBSCL đến TP.HCM và Bà Rịa - Vũng Tàu để xuất khẩu tăng bình quân 8%/năm nhưng chỉ đáp ứng một phần nhu cầu vận chuyển của toàn vùng, khoảng 17-18 triệu tấn/năm.