Nhiều Hộ Có Thu Nhập Ổn Định Từ Nuôi Dông

Nghề nuôi dông ở huyện Đông Hòa (Phú Yên) hình thành từ năm 2005, hiện đang mang lại nguồn thu ổn định cho nhiều gia đình, dù chỉ nuôi được ở vùng đất cát.
DỄ NUÔI
Theo Phòng NN-PTNT huyện Đông Hòa, nghề nuôi dông trên đất cát hình thành cách đây khoảng 8 năm. Ban đầu chỉ một vài hộ nuôi mang tính thử nghiệm, sau đó Phòng NN-PTNT huyện triển khai thí điểm mô hình nuôi dông trên cát. Kết quả ban đầu của mô hình mang lại rất khả quan nên một số người dân trong huyện học tập, nuôi theo. Đến nay, nghề nuôi dông đang phát triển mạnh ở xã Hòa Hiệp Bắc và thị trấn Hòa Hiệp Trung.
Ông Phạm Phố ở thôn Phước Lâm (xã Hòa Hiệp Bắc), một trong những hộ nuôi dông đầu tiên ở xã này cho biết: “Ban đầu tôi chỉ xây dựng 2 hồ nuôi với diện tích vài sào đất trong vườn nhà. Sau 1 năm nuôi, dông phát triển tốt, tiền bán dông thịt đã đủ vốn đầu tư ban đầu nên gia đình tôi mạnh dạn mở rộng diện tích nuôi. Đến nay diện tích nuôi dông của gia đình tôi đã lên khoảng 7.500m2”.
Theo nhiều người, chi phí đầu tư ban đầu để nuôi dông tương đối cao. Bình quân mỗi hồ nuôi rộng 500m2, người nuôi phải đầu tư khoảng 8 triệu đồng để xây hồ, giăng lưới và 70kg dông giống (loại 15 con/kg) hoặc 40kg (loại 30 con/kg). Với giá dông giống khoảng 400.000 đồng/kg như hiện nay, cộng với tiền thức ăn và một số chi phí khác thì mỗi hồ nuôi 500m2 phải đầu tư khoảng 50 triệu đồng. Nhưng bù lại thời gian thu hồi vốn đầu tư khi nuôi dông rất nhanh. Bình quân mỗi năm dông sinh sản 2 lứa, mỗi lứa từ 3 đến 4 con, vì vậy chỉ sau hơn 1 năm số lượng dông có thể tăng lên gấp 2 lần so với số dông thả nuôi ban đầu.
Ông Nguyễn Sinh Thành ở thôn Uất Lâm, xã Hòa Hiệp Bắc cho biết: “Ban đầu gia đình ông thả nuôi 40kg dông giống vào tháng Giêng, đến tháng 4 âm lịch dông bắt đầu đẻ lứa đầu, sau đó đến tháng 9 dông lại tiếp tục đẻ lứa thứ 2. Bình quân mỗi năm hồ dông chưa đầy 1 sào đất cho thu hoạch khoảng 70kg dông thịt, tương đương 20 triệu đồng”.
Dông là loại động vật bán hoang dã nên rất dễ nuôi, không bị dịch bệnh, chi phí thức ăn thấp nên hấp dẫn người nuôi. Ông Phạm Thảnh ở thôn Phước Lâm cho hay: So với các vật nuôi quen thuộc như gà, vịt, heo, bò… thì dông dễ nuôi hơn nhiều. Mỗi ngày chỉ cho ăn một lần, mà không phải chăm sóc gì thêm.
Thức ăn cho dông cũng đơn giản, có thể là các loại rau củ quả trồng sẵn trong vườn nhà hoặc mua ở chợ. “Qua nhiều năm nuôi, tôi thấy dông chỉ có thể mắc bệnh nấm da. Bệnh này thường xảy ra trên dông nuôi tại các hồ ở vị trí trũng thấp, bị ẩm ướt và mật độ nuôi dày. Để loại trừ bệnh này người nuôi nên xây hồ nơi cao ráo, thoáng mát, tỉ lệ thả nuôi hợp lý (dông giống 1 con/m2, dông thịt 3 con/m2)”, ông Thảnh chia sẻ.
SỨC TIÊU THỤ MẠNH
Theo ông Phạm Phố, lúc đầu gia đình ông chỉ nuôi dông, sau đó thấy dông được tiêu thụ mạnh nên ông kiêm luôn việc thu mua cả dông thịt và dông giống cho người nuôi. Bình quân mỗi ngày ông mua khoảng 30kg dông thịt để cung ứng cho các nhà hàng trên địa bàn TP Tuy Hòa và các tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận, TP Hồ Chí Minh... “Hiện có rất nhiều đầu mối ở các tỉnh lân cận đặt hàng với giá cao, nhưng không có dông để cung cấp”, ông Phố cho biết.
Ông Trương Văn Tòng, cán bộ phụ trách chăn nuôi của Phòng NN-PTNT huyện Đông Hòa cho biết, hiện trên địa bàn huyện có khoảng 70 hộ nuôi dông. Tuy nhiên chỉ có vùng đất cát ở nơi cao ráo, thoáng mát không bị ô nhiễm thì mới có thể nuôi được. Mặc dù nghề nuôi dông chưa được phổ biến nhưng đây là nguồn thu nhập ổn định và mang tính bền vững đối với nhiều gia đình.
Có thể bạn quan tâm

Vài năm trở lại đây, cùng với việc đầu tư mạnh trong việc đóng mới tàu cá công suất lớn để vươn khơi đánh bắt xa bờ, ngư dân trong tỉnh còn hiện đại hóa các thiết bị hỗ trợ, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngành kinh tế biển tiếp tục phát triển mạnh đứng vào tốp đầu cả nước.

Năm 2014, sản xuất thủy sản của tỉnh Nam Định tiếp tục phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá, sức cạnh tranh cao phù hợp với hệ sinh thái, khai thác tối đa lợi thế của địa phương; nâng cao năng lực khai thác xa bờ. Tổng sản lượng thủy sản cả năm đạt 110,4 nghìn tấn, tăng 9,5% so với năm 2013; trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 65.900ha, sản lượng khai thác đạt 44.500ha.

Đó là mức giá bán buôn cao hơn từ 100.000 - 150.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm 2014 và tăng mạnh trong 3 năm trở lại đây. Nông dân Phan Hồng Phúc (ấp Hòa Tây B, xã Phú Thuận, Thoại Sơn, An Giang) cho biết, từ nay đến Tết Nguyên đán, nhu cầu cá chình xuất khẩu còn tăng cao và thị trường tiêu thụ đang phát triển tốt.

Đối với những ao nuôi đã lấy nước và chưa thả giống, bà con cần diệt khuẩn 2 lần bằng 2 loại thuốc diệt khuẩn khác nhau. Sau đó thực hiện gây màu nước, khi nước ao đạt độ trong 30 - 40 cm là thích hợp. Bà con nên thả giống theo đúng lịch thời vụ khuyến cáo bắt đầu từ ngày 10 tháng 2 năm 2015 của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Dịch bệnh tiếp tục gây chết tu hài nuôi tại Vân Đồn trong các tháng 2, 3 kéo dài đến tháng 8, 9-2014. Nguyên nhân ban đầu được đánh giá là do ký sinh trùng Perkinsus, vi khuẩn Pseudomonas, Vibrio gây sưng vòi trong điều kiện độ pH, độ mặn cao. Hiện tượng cá rô phi, trắm cỏ, cá chép nuôi tại Uông Bí, Quảng Yên và Đông Triều chết rải rác trong năm 2014 cũng là do nhiễm khuẩn Pseudomonas.