Nhiều Chính Sách Giúp Ngư Dân Bám Biển

Ngư dân khai thác hải sản ngày càng khó khăn do giá nhiên liệu tăng cao, giá cá bấp bênh trong khi ngư trường ngày càng cạn kiệt. Để giúp ngư dân ổn định sản xuất, gắn bó với nghề và vươn ra khơi xa, thời gian qua nhiều chính sách hỗ trợ ngư dân luôn được các cấp, ngành, địa phương quan tâm triển khai.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bình Thuận, thực hiện các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho ngư dân khai thác, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá, từ năm 2008 đến nay toàn tỉnh Bình Thuận đã chi trả hỗ trợ cho các đối tượng theo quy định, như hỗ trợ ngư dân đóng mới tàu đánh bắt hải sản có công suất từ 90CV trở lên hoặc tàu cung ứng dịch vụ hậu cần nghề cá với mức hỗ trợ 70 triệu đồng tàu/năm. Hỗ trợ ngư dân thay máy tàu (từ 90CV trở lên) sang loại máy mới ít tiêu hao nhiên liệu hơn với mức hỗ trợ 18 triệu đồng/máy/năm. Hỗ trợ về kinh phí bảo hiểm thân tàu cho tàu đánh bắt hải sản có công suất từ 40CV trở lên, tàu dịch vụ khai thác hải sản và bảo hiểm tai nạn cho thuyền viên làm việc theo hợp đồng lao động trên tàu cá, tàu dịch vụ với mức hỗ trợ:
Nhà nước hỗ trợ 30% kinh phí mua bảo hiểm thân tàu và 100% kinh phí mua bảo hiểm tai nạn thuyền viên hàng năm. Ngoài ra còn hỗ trợ nhiên liệu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh bắt hải sản hoặc tàu cung ứng dịch vụ hậu cần nghề cá với các mức hỗ trợ theo công suất máy. Đây là lần đầu tiên Nhà nước có các khoản hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động khai thác, dịch vụ nghề cá. Qua đó đã có tác động tích cực, giúp ngư dân duy trì hoạt động sản xuất trên biển trong điều kiện giá nhiên liệu tăng cao, sản xuất khó khăn khiến nhiều tàu thuyền phải nằm bờ. Bên cạnh đó, thông qua các quy định về điều kiện được hỗ trợ đã góp phần nâng cao ý thức của ngư dân trong việc chấp hành các quy định về đăng ký, đăng kiểm, trang bị an toàn cho tàu cá, cấp phép khai thác thủy sản...
Bên cạnh chính sách hỗ trợ nhiên liệu cho ngư dân, thời gian qua các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã triển khai kịp thời và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ ngư dân vay vốn phát triển sản xuất. Trong đó, nhu cầu vay vốn chủ yếu để đóng tàu, mua sắm các trang thiết bị, vật tư, ngư lưới cụ, xăng dầu…phục vụ cho các hoạt động khai thác, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá. Tính đến giữa năm 2013, dư nợ cho vay phục vụ sản xuất và đời sống ngư dân toàn tỉnh đạt 1.038 tỷ đồng/11.791 khách hàng, với lãi suất cho vay ở mức từ 9 - 12%/năm. Trong đó, dư nợ cho vay đóng tàu đạt 11,76 tỷ đồng/25 khách hàng/lãi suất 11,5%/năm; dư nợ cho vay để phục vụ việc khai thác, chế biến hải sản và phục vụ đời sống của ngư dân đạt 1.026,24 tỷ đồng/11.766 khách hàng/lãi suất 9 - 12%/năm.
Nhìn chung, các chính sách hỗ trợ của Chính phủ trong thời gian qua đã góp phần giúp ngư dân vượt qua khó khăn, duy trì sản xuất, mở rộng ngư trường để nâng cao hiệu quả sản xuất, từng bước cải thiện thu nhập, ổn định đời sống. Qua đó kết hợp sản xuất với thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Sau vài năm thực hiện các chính sách hỗ trợ ngư dân bám biển, số tàu cá hoạt động trên các vùng biển xa của tỉnh đã tăng hơn 2 lần. Tuy vậy, các chính sách hỗ trợ thời gian qua so với đặc điểm, tính chất đầu tư và sản xuất nghề cá, nhất là đối với nghề khai thác xa bờ vẫn còn nhiều hạn chế. Do chi phí đầu tư thuyền nghề đánh bắt xa bờ khá cao, ngư dân lao động trong môi trường nặng nhọc, nhiều rủi ro nhưng chính sách hỗ trợ chưa thật tương xứng...Ngư dân khai thác hải sản ngày càng khó khăn do giá nhiên liệu tăng cao, giá cá bấp bênh trong khi ngư trường ngày càng cạn kiệt. Để giúp ngư dân ổn định sản xuất, gắn bó với nghề và vươn ra khơi xa, thời gian qua nhiều chính sách hỗ trợ ngư dân luôn được các cấp, ngành, địa phương quan tâm triển khai.
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bình Thuận, thực hiện các chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho ngư dân khai thác, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá, từ năm 2008 đến nay toàn tỉnh Bình Thuận đã chi trả hỗ trợ cho các đối tượng theo quy định, như hỗ trợ ngư dân đóng mới tàu đánh bắt hải sản có công suất từ 90CV trở lên hoặc tàu cung ứng dịch vụ hậu cần nghề cá với mức hỗ trợ 70 triệu đồng tàu/năm. Hỗ trợ ngư dân thay máy tàu (từ 90CV trở lên) sang loại máy mới ít tiêu hao nhiên liệu hơn với mức hỗ trợ 18 triệu đồng/máy/năm. Hỗ trợ về kinh phí bảo hiểm thân tàu cho tàu đánh bắt hải sản có công suất từ 40CV trở lên, tàu dịch vụ khai thác hải sản và bảo hiểm tai nạn cho thuyền viên làm việc theo hợp đồng lao động trên tàu cá, tàu dịch vụ với mức hỗ trợ: Nhà nước hỗ trợ 30% kinh phí mua bảo hiểm thân tàu và 100% kinh phí mua bảo hiểm tai nạn thuyền viên hàng năm.
Ngoài ra còn hỗ trợ nhiên liệu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu đánh bắt hải sản hoặc tàu cung ứng dịch vụ hậu cần nghề cá với các mức hỗ trợ theo công suất máy. Đây là lần đầu tiên Nhà nước có các khoản hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động khai thác, dịch vụ nghề cá. Qua đó đã có tác động tích cực, giúp ngư dân duy trì hoạt động sản xuất trên biển trong điều kiện giá nhiên liệu tăng cao, sản xuất khó khăn khiến nhiều tàu thuyền phải nằm bờ. Bên cạnh đó, thông qua các quy định về điều kiện được hỗ trợ đã góp phần nâng cao ý thức của ngư dân trong việc chấp hành các quy định về đăng ký, đăng kiểm, trang bị an toàn cho tàu cá, cấp phép khai thác thủy sản...
Bên cạnh chính sách hỗ trợ nhiên liệu cho ngư dân, thời gian qua các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã triển khai kịp thời và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ ngư dân vay vốn phát triển sản xuất. Trong đó, nhu cầu vay vốn chủ yếu để đóng tàu, mua sắm các trang thiết bị, vật tư, ngư lưới cụ, xăng dầu…phục vụ cho các hoạt động khai thác, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá. Tính đến giữa năm 2013, dư nợ cho vay phục vụ sản xuất và đời sống ngư dân toàn tỉnh đạt 1.038 tỷ đồng/11.791 khách hàng, với lãi suất cho vay ở mức từ 9 - 12%/năm. Trong đó, dư nợ cho vay đóng tàu đạt 11,76 tỷ đồng/25 khách hàng/lãi suất 11,5%/năm; dư nợ cho vay để phục vụ việc khai thác, chế biến hải sản và phục vụ đời sống của ngư dân đạt 1.026,24 tỷ đồng/11.766 khách hàng/lãi suất 9 - 12%/năm.
Nhìn chung, các chính sách hỗ trợ của Chính phủ trong thời gian qua đã góp phần giúp ngư dân vượt qua khó khăn, duy trì sản xuất, mở rộng ngư trường để nâng cao hiệu quả sản xuất, từng bước cải thiện thu nhập, ổn định đời sống. Qua đó kết hợp sản xuất với thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Sau vài năm thực hiện các chính sách hỗ trợ ngư dân bám biển, số tàu cá hoạt động trên các vùng biển xa của tỉnh đã tăng hơn 2 lần. Tuy vậy, các chính sách hỗ trợ thời gian qua so với đặc điểm, tính chất đầu tư và sản xuất nghề cá, nhất là đối với nghề khai thác xa bờ vẫn còn nhiều hạn chế. Do chi phí đầu tư thuyền nghề đánh bắt xa bờ khá cao, ngư dân lao động trong môi trường nặng nhọc, nhiều rủi ro nhưng chính sách hỗ trợ chưa thật tương xứng...
Có thể bạn quan tâm

Tính đến năm 2014, tỉnh Sóc Trăng có gần 30 doanh nghiệp xuất khẩu, trong đó có 10 doanh nghiệp xuất khẩu thủy, hải sản các loại, 3 doanh nghiệp xuất khẩu gạo, 4 doanh nghiệp xuất khẩu nông sản và các doanh nghiệp còn lại xuất khẩu mặt hàng bánh pía - lạp xưởng, vàng, ngọc trai...

Thị trường XK gạo đang gặp khó trở lại khi nguồn cung trên thế giới tăng mạnh trong những tháng cuối năm, trong khi nhu cầu NK đã giảm sau mấy tháng sôi động vừa qua.

Dù đã bước vào niên vụ sản xuất mía đường chính vụ, nhưng không khí tranh thu mua nguyên liệu tại khu vực ĐBSCL năm nay không tái diễn. Hiện tượng này được đánh giá là khá “lạ”, bởi 15 năm qua, các nhà máy đường ở khu vực luôn trong cảnh tranh mua, tranh bán mía nguyên liệu khi vào vụ. Năm nay, phải đến giữa tháng 10, các nhà máy đường mới bắt đầu vào vụ, trong khi đó, vụ mía đường chính hàng năm mở màn từ tháng 9.

Từ đầu năm tới nay, trong khi xuất khẩu mực, bạch tuộc của Việt Nam vào thị trường Hàn Quốc và EU cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ thì giá trị xuất khẩu sang Nhật Bản sụt giảm do các hàng rào kỹ thuật và sang Nga, Australia thiếu ổn định.

Theo ông Dũng, 18 giống cây thủy sinh xuất bán đều được nhập khẩu từ chính Đan Mạch và Singapore. Sau khi được nhân giống trong phòng thí nghiệm và nuôi lớn đến mức có thể sống trong môi trường nước, công ty sẽ xuất khẩu trở lại các nước này.