Nhân Rộng Mô Hình Cánh Đồng Mẫu Lớn

Lợi nhuận của nông dân thêm 2,2-3 triệu đồng/ha, có nơi tăng thêm 7-7,5 triệu đồng/ha sau khi áp dụng mô hình “cánh đồng mẫu lớn”. Bộ NN&PTNT đã cho biết như vậy tại hội nghị sơ kết mô hình trên tổ chức tại An Giang ngày 22-8.
Thu hoạch lúa tại mô hình “cánh đồng mẫu lớn” tại An Giang - Ảnh: Đ.V.
Tuy nhiên việc nhân rộng mô hình này trong điều kiện hiện nay vẫn còn những hạn chế, gặp không ít khó khăn, tồn tại. Vấn đề đặt ra là giải pháp để triển khai mô hình này như thế nào...
Mới là nét chấm phá trong liên kết
Sau khi Bộ NN&PTNT phát động xây dựng mô hình “cánh đồng mẫu lớn” vào cuối tháng 3-2011, vụ hè thu rồi đã có 7.803 ha với 6.400 hộ nông dân ở 13 tỉnh Nam bộ tham gia. Nhận định bước đầu cho thấy mô hình phát huy hiệu quả như: tăng năng suất, đảm bảo khâu tiêu thụ ổn định... Đặc biệt, doanh nghiệp có vùng nguyên liệu ổn định, chất lượng gạo đồng nhất và giảm chi phí trung gian nên từ đó kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Với thực tế sản xuất lúa lâu nay còn manh mún, quy mô nhỏ lẻ, không có sự gắn kết giữa doanh nghiệp với nông dân thì đây là mô hình liên kết hiệu quả trong sản xuất và tiêu thụ. Bộ NN&PTNT cho rằng đây là hướng đi tất yếu, cũng là giải pháp thiết thực nhất để tiến tới nền sản xuất lúa hàng hóa lớn hiện nay và trong tương lai. Từ đó, theo kế hoạch, các tỉnh Nam bộ sẽ mở rộng diện tích các “cánh đồng mẫu lớn” trong vụ đông xuân 2011-2012 đạt 20.000ha và đến năm 2013 đạt 100.000-200.000ha, với mỗi tỉnh 10.000-20.000ha.
Theo TS Phạm Văn Dư - phó cục trưởng Cục Trồng trọt, với 210 doanh nghiệp xuất khẩu gạo hiện nay, trong đó thành viên AFA là 123 doanh nghiệp, nếu mỗi đơn vị xây dựng cho mình một “cánh đồng mẫu lớn” diện tích 1.000ha thì cả nước sẽ có ít nhất 123.000-210.000ha vùng nguyên liệu, chiếm 7,4-12,7% diện tích canh tác.
“Doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng, nếu họ không tham gia thì việc triển khai mô hình sẽ rất khó khăn. Mặt khác, xây dựng cánh đồng mẫu lớn phải thực hiện sản xuất lúa hàng hóa theo tiêu chuẩn VietGap, trong khi nhiều nông dân chưa nhận thức đầy đủ về mục đích, yêu cầu của mô hình, trình độ lại không đồng đều nên khả năng tiếp thu, ứng dụng khoa học kỹ thuật canh tác còn giới hạn, từ đó hạn chế việc triển khai mô hình” - ông Dư nhận định.
Làm từ từ rồi nhân rộng
Chia sẻ kinh nghiệm khi thực hiện “cánh đồng mẫu lớn”, ông Huỳnh Văn Thòn - tổng giám đốc Công ty Bảo vệ thực vật An Giang - cho rằng do phải xuống giống đồng loạt nên khi thu hoạch lúa cũng đồng loạt. Trong khi nông dân muốn bán lúa tươi nên việc vận chuyển, sấy khô đã tạo áp lực và lúng túng cho doanh nghiệp trong thu mua lúa. “Nông dân sợ nhất là phơi sấy nên cần tập trung giải quyết thu mua lúa tươi tại chỗ. Nếu khắc phục tình trạng cúp điện và đảm bảo khâu sấy có chi phí dưới 100 đồng/kg mới đảm bảo thành công” - ông Thòn phân tích.
GS Nguyễn Thơ, chuyên gia ngành nông nghiệp, nhận định việc xây dựng các “cánh đồng mẫu lớn” là cách làm tốt, là hướng đi mới nhưng chỉ mới là “nét chấm phá” còn phải nghiên cứu giải quyết nhiều vấn đề. “Để mô hình đứng vững thì cách tổ chức trong chuỗi sản xuất cũng phải công khai minh bạch trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích các bên, đặc biệt là với nông dân” - ông Thơ nói.
Thứ trưởng Bùi Bá Bổng cho rằng điều kiện và thực tiễn sản xuất hiện nay đã hội đủ các điều kiện để hình thành các cánh đồng mẫu lớn, đây là hướng đi phù hợp chương trình xây dựng nông thôn mới. Mặt khác, với điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo vừa được Chính phủ ban hành thì vùng nguyên liệu lúa xuất khẩu của doanh nghiệp nên xây dựng theo mô hình cánh đồng mẫu lớn.
“Vùng nguyên liệu này hình thành trên cơ sở quy hoạch của từng tỉnh. Mỗi tỉnh tùy theo thực tế mà chọn quy mô phù hợp, có thể xây dựng 2-3 vùng nguyên liệu tập trung khoảng vài ngàn hecta sản xuất theo hướng VietGap rồi rút kinh nghiệm, cách làm, sau đó phát triển tăng dần theo nhu cầu”, ông Bổng nói.
Đã có tiêu chí xây dựng cánh đồng mẫu lớn Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Bùi Bá Bổng cho biết bộ đã phát hành bộ tiêu chí xây dựng cánh đồng mẫu lớn. Ngoài ra bộ còn có văn bản hướng dẫn việc xây dựng mô hình liên kết xây dựng cánh đồng mẫu lớn theo hướng tiến tới xây dựng vùng nguyên liệu lúa hàng hóa chất lượng cao xuất khẩu. Bên cạnh đó với điều kiện quy định đối với doanh nghiệp xuất khẩu theo nghị định 109/NĐ, khi doanh nghiệp tổ chức liên kết cùng nông dân tham gia cánh đồng mẫu lớn thì khả năng “bẻ kèo” khó có thể xảy ra. |
Có thể bạn quan tâm

Trạm Khuyến nông huyện Cao Lãnh, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh Đồng Tháp vừa kết hợp với UBND xã Bình Hàng Trung tổ chức hội thảo mô hình canh tác mè trên nền đất lúa.

Vài năm trở lại đây, ở Tiền Giang, tình hình dịch bệnh trên tôm sú nuôi quảng canh cải tiến ngày càng diễn biến phức tạp, trong khi đó các biện pháp kiểm soát chất lượng môi trường nước, phòng ngừa dịch bệnh đối với mô hình này dường như không có hiệu quả. Vậy mà, hiện nay bà con nuôi tôm quảng canh cải tiến vẫn còn xem nhẹ vấn đề chất lượng con giống khi chỉ mua loại tôm sú giống được xem là dành riêng cho hình thức nuôi này với giá chỉ bằng 40% so với tôm giống thả nuôi thâm canh, bán thâm canh. Đây chính là mầm móng dễ xảy ra dịch, bệnh báo động.

Sau hơn 15 năm triển khai sản xuất, mô hình lúa lai F1 đang có dấu hiệu chững lại. Lãnh đạo nhiều huyện, xã, đặc biệt các chủ nhiệm HTX không còn mặn mà với mô hình một thời là vấn đề thời sự trong sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Vậy nguyên nhân vì sao?

Vụ 1 năm nay, toàn huyện Núi Thành thả nuôi tôm trên diện tích 600ha (bằng 60% kế hoạch). Mặc dù các hộ thả nuôi tôm đúng lịch thời vụ nhưng do nguồn nước, con giống chưa đảm bảo nên đã có 29ha bị dịch bệnh.

So với các tỉnh ĐBSCL, Bến Tre có tổng đàn heo trên 500 ngàn con, với phẩm cấp giống khá tốt. Tuy nhiên, đa số sản xuất dưới hình thức nông hộ, quy mô còn nhỏ lẻ và mức độ đầu tư về cơ sở vật chất chưa cao, chưa có qui hoạch khu chăn nuôi riêng. Vì vậy, việc bảo đảm vệ sinh môi trường trong chăn nuôi nhằm hạn chế dịch bệnh cho vật nuôi, bảo đảm vệ sinh môi trường và sức khỏe cộng đồng luôn là vấn đề bức thiết. Trong đó, giải pháp an toàn sinh học luôn được chú trọng.