Người Nuôi Rắn Hổ Hèo Khóc Ròng

Hơn một năm nay, giá rắn hổ hèo sụt giảm mạnh từ 1 triệu đồng/kg xuống còn 250 ngàn đồng/kg.
Chúng tôi về làng nuôi rắn hổ hèo ở xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn (An Giang) để tìm hiểu chương trình hỗ trợ hộ nghèo vươn lên thông qua việc nuôi rắn hổ hèo.
Được sự giới thiệu của Hội Nông dân xã, chúng tôi tìm đến ấp Tây Bình, vừa rẽ vào con kênh ở ấp để hỏi thăm đến nhà một hộ nuôi rắn từ chương trình, thì một phụ nữ chạy ra hỏi: “Hai chú mua rắn hả, nhiều hay ít…”. Qua đó, cũng đủ biết các hộ nuôi rắn ở đây ngóng chờ người mua như thế nào.
Khi đến nhà anh Dương Hoài Nhã, đúng lúc vợ chồng anh đang chăm sóc đàn rắn, anh rầu rĩ: “Gia đình tôi là một trong những hộ nghèo được hỗ trợ vay vốn nuôi rắn.
Hơn 2 năm nay, cả gia đình bỏ công chăm sóc, hy vọng cải thiện cuộc sống, nào ngờ niềm vui giá rắn ở mức cao chưa được bao lâu lại gặp cảnh rớt giá, dội chợ như thế này”.
Được biết, năm 2012, vợ chồng anh Nhã được hỗ trợ 4 triệu đồng để đóng chuồng nuôi rắn. Do đàn rắn nuôi ban đầu không nhiều nên sau một năm chỉ bán được 50 con rắn giống (mới nở) với giá 200.000đ/con, 50 quả trứng với giá 100.000đ/trứng.
Đàn rắn phát triển tốt nên anh Nhã quyết định tăng đàn với hy vọng năm sau thắng lợi. Tuy nhiên, gần một năm nay đàn rắn của anh vẫn nằm yên trong chuồng.
Anh Nhã buồn bã: “Rắn hổ hèo là loài vật dễ nuôi nhưng hiện tại giá rớt thê thảm mà các hộ muốn bán cắt lỗ cũng khó. Trước đây, rắn thương phẩm loại 3 – 5kg/con, bán với giá hơn 1 triệu đồng/kg, nay giảm xuống còn 400.000đ/kg, còn rắn giống từ 200.000đ/con xuống còn 50.000đ/con; trứng 100.000đ rớt xuống còn 15.000 – 20.000đ/trứng. Với giá này người nuôi lâm cảnh nợ nần là điều khó tránh khỏi”.
Cũng theo anh Nhã, để rắn đạt trọng lượng trên 3kg, các hộ nuôi phải chăm sóc từ 2,5 – 3 năm. Rắn càng lớn lượng thức ăn càng nhiều nên không bán được chi phí sẽ tăng lên. Đối với loại rắn loại này (3 – 5 kg/con), bán với giá 700.000đ/kg trở lên người nuôi mới có lãi.
Gần cả năm nay, đàn rắn hơn 150 con (rắn thương phẩm, rắn giống) vẫn không bán được con nào, kể cả trứng. Đến nay 4 triệu đồng tiền vay mượn phục vụ chăn nuôi rắn của gia đình anh vẫn chưa trả được.
Cách đó không xa, có chung nỗi buồn với anh Nhã là ông Trần Văn Hoàng cùng ấp Tây Bình nuôi 240 con rắn, cho biết: “Tôi làm nghề nuôi rắn hơn 3 năm nay, chưa thấy khi nào giá giảm mạnh như bây giờ, lại không có người mua.
Trong khi đó, hằng ngày vẫn phải tốn tiền mua ếch, nhái cho rắn ăn...”. Theo ông Hoàng, trước đây ấp này có 5 hộ dân được hỗ trợ vốn nuôi rắn và một số ít hộ nuôi tự phát, nhưng hiện tại chỉ còn lại 3 hộ, do rắn sụt giảm mạnh mà lại không có đầu ra. May mắn hộ nào bán được cũng không đủ chi phí.
Trao đổi với chúng tôi, ông Đặng Thành Trung, Chủ tịch Hội Nông dân xã Thoại Giang, cho biết: “Mấy năm trước, khi giá rắn đứng ở mức cao, 30 hộ dân trên địa bàn toàn xã thuộc diện nghèo được Sở Lao động - Thương binh và Xã hội hỗ trợ 4 triệu đồng/hộ không tính lãi, với thời gian tối đa 3 năm để xây dựng chuồng nuôi rắn hổ hèo. Nhưng hiện tại mô hình ngưng triển khai, do các hộ nuôi gặp khó về đầu ra cũng như giá bán đứng ở mức thấp”.
Có thể bạn quan tâm

Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, mỗi năm đóng góp nhiều tỷ đô la cho quốc gia. Tuy nhiên điều này có thể gây ảnh hưởng lớn trong tương lai gần vì diện tích vườn cà phê già cỗi tăng nhanh trong thời gian gần đây.

Một niềm vui vừa đến với người chăn nuôi Phú Bình (Thái Nguyên), đó là ngày 11-11-2014, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã cấp chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm “Gà đồi Phú Bình”. Đây là nhãn hiệu sản phẩm chăn nuôi đầu tiên của tỉnh được bảo hộ, từ đó mở ra cơ hội lớn đối với những hộ chăn nuôi gà ở Phú Bình.

Ông Võ Đình Tâm, Chi cục trưởng Chi cục NTTS Bình Định thở dài khi nhắc đến chuyện hạn hán: “Không có nước thì không thể nuôi cá. Trong khi đó hạn hán kéo dài đã vắt kiệt các hồ, ao, sông, suối… nên diện tích nuôi trồng thủy sản năm nay giảm mạnh”.

Cây giảo cổ lam được thâm canh dưới tán rừng trồng, với diện tích khoảng 0,6 ha ở 3 huyện miền núi nói trên, cho kết quả khả quan. Theo những người thực hiện đề tài, sau 6 tháng trồng, tỷ lệ cây sống từ 83 - 90%, chiều dài thân đạt từ 2,9 - 3,6 m, đã thu hoạch lần đầu trên 210 kg.

Tình trạng nuôi TCT tràn lan, trong vùng ngọt hóa ngày càng gia tăng, chưa có giải pháp ngăn chặn kịp thời. Để giải quyết bài toán khó này, UBND tỉnh Bến Tre vừa phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch chi tiết nuôi TCT trên địa bàn tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.